10/05/2005 00:45 GMT+7

Thâm tình từ mấy vần thơ

PHẠM VŨ
PHẠM VŨ

TT - Đi cùng đoàn cán bộ lão thành vượt gần hai trăm cây số đường bộ lẫn đường thủy, trong mưa và trong đêm để về cù lao Dài (huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long) thắp nén nhang trước linh cữu nhà thơ Truy Phong, cứ ngỡ rằng tình đồng chí, đồng đội của họ đã gắn bó thâm sâu qua từng ngày, từng giờ chiến đấu, sống chết.

7spJ75tZ.jpgPhóng to
Ông Lê Minh Châu đọc lần cuối bài Một thế kỷ mấy vần thơ trước linh cữu nhà thơ Truy Phong - Ảnh: P.V.

Còn trước đó rất lâu, mối tâm giao, gắn kết chỉ là qua những vần thơ. Như lời bài hát mà nhạc sĩ Vân An hát bên ngọn nến đêm nay: “Có những con người chưa hề biết mặt nhau, chưa một phút đổi trao/ Mà tại sao như là đã quen nhau, thương nhau tình tri âm tri kỷ...”.

Nhà báo lão thành Hương Nam (Trần Văn Bảy) kể về mối cơ duyên giữa ông và Truy Phong: “Năm 1956, tôi đang là biên tập viên của tờ tuần báo Tiến Thủ tại Sài Gòn. Một sáng, một người lái xe đò mang đến bài Một thế kỷ mấy vần thơ ký một cái tên bí ẩn: T.P. Đọc vài câu, rồi đọc một trang, hai trang..., cả tòa soạn chúng tôi rùng mình vì xúc động. Một bài thơ hay và sẽ có tác động lớn! Không thể không đăng, nhưng thông tin về tác giả lại quá mơ hồ, và điều chắc chắn duy nhất là tòa soạn chúng tôi sẽ không thể tồn tại sau khi đăng bài thơ. Anh thư ký tòa soạn đọc, rồi quả quyết mang đặt lên bàn ông chủ bút: “Đây là thơ của... ba tôi”. Tất nhiên, ông chủ nhiệm Việt Tha (Lê Văn Thử) thừa kinh nghiệm để không tin. Ông ngồi bàn bạc với tôi hơn một tiếng đồng hồ, phân tích từng điều hơn lẽ thiệt, rồi quyết định: “Bài thơ này sẽ có giá trị gấp nhiều lần tờ Tiến Thủ của chúng ta”.

Một thế kỷ mấy vần thơ được đăng trang trọng trên trang 1. Báo Tiến Thủ hôm ấy bán hết cấp kỳ. Các quán cà phê Sài Gòn lao xao đọc thơ: “Việt Nam, nước của tôi/ Ruộng dâu hóa biển/ Lòng chẳng đổi thay/ Dầu ai cắt đất chia hai/ Cho trong đau khổ, cho ngoài thở than/ Dầu ai banh ruột xé gan/ Cho tim xa óc, cho nàng xa tôi/ Thì anh hãy nhớ một lời/ Ngày mai thống nhứt liền đôi bến bờ...”.

Mấy ngày sau, tòa soạn báo Tiến Thủ bị những kẻ quá khích kéo đến đập thành đống gạch vụn, ông chủ nhiệm phải leo tường mới thoát sang nhà bên cạnh, chính quyền Sài Gòn lập tức ban hành lệnh rút giấy phép.

Thế nhưng bài thơ đã bay xa. Các nhật báo, tuần báo khi ấy đua nhau đăng lại. Giới học sinh, sinh viên chép tay, chuyền cho nhau học thuộc, đọc lên trong những buổi sinh hoạt như lời kêu gọi đấu tranh. Những người tù chính trị ngâm ngợi trong từng đêm dài, giữa những đợt tra tấn. Rất nhiều, rất nhiều những hạt nhân của phong trào SVHS sau này kể rằng đã đến với phong trào lần đầu qua những vần thơ ấy...

Câu chuyện thú vị về sinh mệnh của Một thế kỷ mấy vần thơ ấy mãi sau này tác giả Truy Phong mới được biết, khi những người đã cùng nhau nối dài tác phẩm như ông Hương Nam, ông Lê Minh Châu tìm về cù lao Dài.

Đêm nay, bài thơ lại được ông Lê Minh Châu đọc lên lần nữa, nhuốm đầy cảm xúc khi đưa tiễn tác giả lần cuối cùng. “Bài thơ đã hoàn thành trọn vẹn vai trò lịch sử của nó, tác giả cũng đã đi xa. Nhưng chắc chắn rằng chúng tôi sẽ còn đọc, không phải lần cuối cùng”, những người đi dự lễ truy điệu vừa lần mò xuống đò để về trong đêm vừa khẳng định như vậy.

Một thế kỷ mấy vần thơ

Ánh hồng chói rạng chân trời mới,Ngọn lửa đao binh tắt lịm rồi.Có kẻ chiều nay về cố quánÂm thầm... không biết hận hay vui?!Chiều nayKèn kêu tức tưởi nghẹn lờiTiếng ngân xúc động dạ người viễn chinh!Chiều nay trên nghĩa địaCó một đoàn tinh binhCờ rủ và súng xếpCúi đầu và lặng thinh.Nghẹn ngào giã biệt người thiên cổĐất lạ trời xa sớm bỏ mìnhThịt nát, xương tan, hồn thảm bại,Ngàn năm ôm hận cõi u minh!Những ai làm lính viễn chinhChiều nay bước xuống tàu binh trở về...Tàu xúp lê!Tàu xúp lê!Cửa Hàm Tử lao xao sóng gợn,Bến Bạch Đằng lởn vởn hồn quêBước đi những bước nặng nề,Ngày đi chẳng biết, ngày về chẳng hay...

Một ngàn chín trăm năm sáu (1956)Một ngàn tám trăm sáu hai (1862)Giựt mình bấm đốt ngón tayTrăm năm một giấc mộng dài hãi kinh!Ngày anh đến đây:Thành Đà Nẵng tan hoang vì đại bácXác anh hùng Đình Lý hóa tro bay.Giữ Gia Định, Duy Ninh liều mạng thácÔm quốc kỳ tuẫn tiết giữa trùng vây!Phan Thanh Giản nuốt hờn pha thuốc độcBởi xâm lăng bắt nhượng nước non nàyVà Thăng Long máu hòa ba lớp đấtThất kinh thành, Hoàng Diệu ngã trên thây!...Hỡi ơi! Xương máu dẫy đầyChân anh giẫm tới, đất này tóc tang!Tay gươm, tay súngBước nghinh, bước ngangAnh bắn!Anh giết!Anh đâm!Anh vằm!Anh đày Bà Rá, Côn NônAnh đọa Sơn La, Lao BảoAnh đoạt hết cơm, hết áoAnh giựt hết bạc, hết vàng...Chặt đầu ông lão treo hàng thịt,Mổ mật thanh niên giữa chiến tràng,Cối quết trẻ thơ văng nát óc,Phanh thây sản phụ, đốt thành than...Con lìa mẹVợ xa chồngCây rụi láNhà trống khôngNgười chìm đáy biểnNgười tấp ven sôngNgười ngã trên núiNgười gục trong rừng...Đây Cà Mau, đó Nam QuanThôi rồi mảnh đất Việt Nam,Hung hăng anh bóp trong bàn tay tanh!Nước tôi đang độ yên vui sốngMít ngát hương mùa, bưởi ngọt thanhLúa nặng tình quê, khoai luyến đấtKhông thương nhau, lại giết nhau đànhCắn răng tôi chịu cực hìnhVuốt râu, anh hưởng công linh đồng bào.Anh phân ly Nam BắcAnh chia rẽ nghèo giàu.Nước non anh quậy tan tành hếtCho ớn hoàn nhau, giết lẫn nhau...Người chết thì dạiNgười sống thì ngu.Dân ngu vì bị làm nguĐặng dân làm ngựa, làm trâu suốt đời...

Nhưng thôi!Hận thù nhắc lại bao giờ dứtBút mực làm sao kể hết lờiNhắc mãi, kể hoài thêm tủi nhụcLinh hồn thơm ngát Tổ tiên tôi.Bao năm khói lửaTa hiểu nhau rồiCái gì bạn ngược và phi nghĩaLà trái lòng dân, nghịch ý trời.Sắt thép tinh ròng, binh tướng dữKhông sao thắng được trái tim người!Anh về là phải, anh ơi!Về bây giờ để cho đời nhớ anh.Những cái gì tôi hậnNhững cái gì tôi khinhGiờ đây anh xuống tàu binhTrăm năm chuyện cũ, thôi mình bỏ qua!Bao giờ tôi chẳng nhớNước Pháp rộng bao laThành Paris rực rỡÁnh văn minh chói lòa...Cốt "Đazua" (Côte d'Azur) người thanh và cảnh lịchBờ Mạc xây (Marseille) xinh đẹp nhất sơn hàKhí sông núi đúc nên trang tuấn kiệtBực anh hùng cứu quốc "Giốp" (Joffre), "Giăn Đa" (Jeanne d'Are)Tôi nhớ lắm một ngày năm tám chín (1789)Anh vùng lên phá ngục "Bát ti" (Bastille) nhàAnh giải phóng cho giống nòi được sốngĐược vinh quang trong "Đệ tứ cộng hòa"Anh vui, anh sướngAnh hát, anh ca...Tôi là người ở phương xaNgày anh sáng lạn cùng hòa niềm vui!Anh về nước Pháp xa xôiChắc anh bao giờ quên đượcNhững là đường đi nước bướcNhững là tên tuổi Việt Nam:Suối Yên Thế tuôn trào hậm hựcĐất Thái Nguyên căm tức nổi vồngTháp Mười hận nước mênh môngU Minh mấy trận bão lòng chưa nguôi.Việt Nam, nước của tôi:Sông sâu, đồng rộngTrái tốt, hoa tươi...Hà Nội kinh thành trang chiến sửSài Côn đô thị rạng anh tàiPhú Xuân bừng chói gương ưu quốcNghĩa nặng tình thâm vạn thuở nay!Việt Nam, nước của tôi:Già như trẻGái như traiChết thì chịu chếtKhông cúi lòn ai!Tham lam ai muốn vô xâm chiếmThì “giặc vào đây, chết ở đây”!Việt Nam, nước của tôi:Ruộng dâu hóa biểnLòng chẳng đổi thay!Dầu ai cắt đất chia haiCho trong đau khổ, cho ngoài thở thanDầu ai banh ruột, xé ganCho tim xa óc, cho nàng xa tôiThì anh hãy nhớ một lời:“Ngày mai thống nhứt liền đôi bến bờ”...Đã đến giờChia tay cách biệtAnh lìa nước ViệtVừa tủi vừa mừngBên nhà vợ đợi con trôngVắng anh, tình mặn nghĩa nồng cũng phaiTàu xúp lê một!Tàu xúp lê hai!!Siết tay anh nhé, anh về nướcBiển lặng, trời êm nhớ lấy ngày.Và chẳng bao giờ quên nhắc nhởCho ai đừng đến đọa đày ai!Tự vấn lương tâm rồi tự đáp:- Đánh cho ai và chết cho ai???Bóng ngã trời tâyGió lồng biển cả...Phúy giây từ giãTrang sử trăm năm!Tàu anh rời bến Việt NamHãy xuôi một ngã, một đàng mà đi!Xin tàu đừng ghé Bắc Phi,Sóng to gió lớn chắc gì đến nơi.Đừng gây oan trái, tàu ơi!Hãy xuôi về Pháp cho người hát ca...Tàu xúp lê hai!!Tàu xúp lê ba!!!Anh về mạnh giỏi.- Ô rờ voa! (aurevoir)

15-4-1956

------------------------

(Bài thơ dài 169 câu, viết về cuộc rút lui của quân đội viễn chinh Pháp khỏi đất nước VN, xác định chủ quyền độc lập thống nhất của Tổ quốc)

PHẠM VŨ
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên