![]() |
Samuel Beckett |
Nổi tiếng với Waiting for Godot, Murphy, Watt…, Samuel Beckett (1906 - 1989) là niềm tự hào của nền văn học Ireland.
Trong các tác phẩm kịch và sáng tác văn xuôi, Beckett đã khắc họa được một vẻ đẹp tự nhiên và một nỗi đau vô tận, sâu thẳm của con người thông qua chất bi - hài kịch châm biếm thói hư tật xấu.
Câu trích dẫn trong đề từ dành cho giải Nobel văn chương năm 1969 đã ca ngợi “các sáng tác của ông sử dụng những dạng thức mới của tiểu thuyết và kịch để biến đổi sự nghèo khổ, túng quẫn của con người hiện đại thành niềm hạnh phúc tột cùng”.
Beckett có khuôn mặt gầy, xương xương góc cạnh với những vết nhăn hằn sâu, tóc hoa râm cắt ngắn, chiếc mũi dài giống mỏ chim và đôi mắt màu mòng biển, là một trong những khuôn mặt hình tượng nhất của thế kỷ 20. Ông là một người rất nhút nhát, nhạy cảm và cũng rất tốt bụng, hào phóng đối với bạn bè, thậm chí cả đối với người lạ.
Đối với bạn bè cũng trang lứa, Beckett là một người vui vẻ, hài hước, dễ hòa đồng và thích tiệc tùng, chè chén nhưng ông cũng rất kín đáo và luôn từ chối khi được phỏng vấn hay bất cứ phần việc gì cho việc quảng bá các cuốn sách và các vở kịch của ông.
Mặc dù ông sống gần hết cuộc đời ở Paris và sáng tác cả bằng tiếng Anh lẫn tiếng Pháp, nhưng ông luôn luôn mang theo một hộ chiếu Ailen. Chính bản thân Beckett cũng thừa nhận những dấu ấn do nguồn gốc Ailen lưu lại trong trí tưởng tượng của mình. Ngôn ngữ và đối thoại của ông có cú pháp và ngữ điệu của tiếng Ailen.
Beckett chịu ảnh hưởng rất nhiều các bậc tiền bối người Ailen như Jonathan Swift1, J.M Synge2, Jack Butler Yeats3 và đặc biệt là người bạn và tấm gương của ông, James Joyce4 . Khi một nhà báo hỏi Beckett có phải là người Anh không, ông trả lời rất đơn giản bằng tiếng Pháp “ngược lại” (Au contraire).
Gia đình - Giáo dục - Tình cảm
![]() |
Samuel Beckett thời trẻ |
Cái chết sớm của cha ông năm 1933 đã để lại cho Beckett một nỗi trống vắng khủng khiếp trong suốt cuộc đời còn lại của ông và cũng đưa đến cho ông một chủ đề chủ đạo - bản chất nỗi thống khổ ngẫu nhiên, không công bằng, không lý do của con người. Bà May Beckett có cả hai tính cách: tình cảm và độc đoán; và “tình yêu độc đoán” của bà đã có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đứa con trai của mình
Beckett học tiểu học tại trường Earlsfort House ở trung tâm của Dublin, sau đó trọ học ở trường Portora Royal ở Enniskillen - trường học của Oscar Wilde. Năm 1923, Beckett vào học trường Trinity College Dublin: tại đó ông học tiếng Pháp và tiếng Italia. Beckett học rất giỏi: nhận được học bổng danh giá cho nghiên cứu ngôn ngữ hiện đại khi kết thúc năm học thứ 3. Ông tốt nghiệp với điểm cao nhất lớp năm 1927 và được nhận huy chương vàng của nhà trường.
Suốt cuộc đời, Beckett chiếm được tình cảm, tình yêu của khá nhiều cô gái và rất nhiều trong số họ sau này trở thành những người bạn lâu dài của ông. Beckett yêu lần đầu tiên khi đang là sinh viên đại học với một người bạn cùng khóa có tên là Ethna MacCarthy - người xuất hiện trong một số sáng tác và thơ đầu tay của Beckett. Đó có vẻ như là một tình cảm đơn phương và sau đó cô đã kết hôn với A.J. ‘Con’Leventhal, một người bạn suốt đời của Beckett.
Khi ở Paris, Lucia - con gái của James Joyce, sau này được chuẩn đoán là tâm thần phân liệt đã phải lòng chàng trai trẻ hay đến thăm nhà cha mình. Sự khó xử cho tình cảm say đắm không được đền đáp này dẫn đến một giai đoạn tạm thời đứt gãy quan hệ giữa Beckett và gia đình Joyce.
Thử thách - Sự nghiệp
![]() |
Những dấu hằn trong trải nghiệm của bản thân về tâm lý liệu pháp xuyên suốt các sáng tác của ông. Phần lớn được xây dựng dưới dạng độc thoại, người nói đứng trong bóng tối, nói rất nhanh như thể anh ta bị điên với người nghe mà anh ta không thể nhìn thấy mặt.
Beckett bắt đầu viết Murphy ở London năm 1935 và hoàn thành tháng 6 năm 1936. Xuất phát điểm đầu tiên cho rất nhiều độc giả hiện đại của Beckett, cuốn tiểu thuyết hài hước của những ý tưởng chắc chắn là sáng tác ít thử nghiệm nhất, nhưng nó cũng không tránh khỏi việc bị nhận 42 lời từ chối trước khi được Routledge xuất bản năm 1938.
Tháng 11 năm 1937, sau chuyến đi 6 tháng ở Đức, Beckett xuất hiện với tư cách là nhân chứng cho bên nguyên trong một vụ kiện tụng tai tiếng ở Dublin. Beckett rời khỏi vụ kiện trong tình trạng tồi tệ, rời bỏ Dublin để sang Parsi vĩnh viễn.
Ngày 6-1-1938, Beckett bị một kẻ dẫn gái đâm trên đường phố ở Paris mà không do một nguyên nhân rõ ràng nào cả. Con dao đi vào rất gần tim ông. Trong khi nằm điều trị trong bệnh viện, Suzanne Deschevaux-Dumesnil (1901-1989) - người mà Beckett đã gặp lần đầu tiên 10 năm về trước - đến thăm ông. Beckett và Suzanne đã ở bên nhau phần còn lại cuộc đời họ và cuối cùng họ chính thức cưới nhau năm 1961. Không có sự cống hiến hào phóng của cô ấy cho tài năng của Beckett, kể cả những nỗ lực không mệt mỏi đi tìm kiếm nhà xuất bản cho những sáng tác đầu tay thì Beckett chắc chắn sẽ không có được thành công của mình.
Khi mà chiến tranh nổ ra tháng 9, năm 1939, Beckett đang ở Dublin thăm mẹ ông. Ông đã nhanh chóng thu xếp để quay trở lại Paris và nổi tiếng tuyên bố rằng ông thích nước Pháp trong chiến tranh hơn nước Ailen trong hòa bình. Kinh sợ cách đối xử với những người bạn Do Thái của mình dưới sự chiếm đóng của Đức Quốc Xã, Beckett đã chủ động tham gia vào phong trào kháng chiến ở Paris với nhiệm vụ chính là người điểu khiển, xử lý thông tin.
Tháng 8, năm 1942, chi bộ của ông đã bị phản bội và hơn 50 thành viên bị bắt giữ và bị đẩy vào trại tập trung. Beckett và Suzanne cẩn trọng trốn thoát và thành công cho một hành trình mạo hiểm đến một vùng không bị chiếm đóng của Pháp, nơi họ đã sống suốt quãng thời gian còn lại của cuộc chiến. Ban ngày, Beckett làm việc như một người làm công ở trang trại còn buổi tối ông viết cuốn tiểu thuyết thử nghiệm hấp dẫn Watt. Sau chiến tranh, Beckett được tặng thưởng huân chương cho các hoạt động kháng chiến.
Năm 1945, sau một thời gian ngắn ở Dublin, ông quay trở lại Pháp và làm việc như một phiên dịch và thủ kho cho bệnh viện Chữ Thập Đỏ ở Saint Lô trước khi quay trở lại với Suzanne ở Paris. Chỉ có một vài ám chỉ về chiến tranh trong sáng tác của Beckett nhưng có nhiều dấu hiệu chỉ ra rằng bản thân chiến tranh đã in hằn trong trí tưởng tượng của ông. Có vẻ như nó đã đóng góp cho một thay đổi hướng đi một cách cơ bản.
Không giống một số sáng tác biểu hiện rõ ràng ảnh hưởng của Joyce trong cách chơi chữ và những ám thị nặng nề đến các tác phẩm văn học khác, các sáng tác hậu chiến của Beckett mang chở kiến thức nhẹ nhàng hơn,
Văn phong sung mãn của Beckett không bắn phá chúng ta bằng học vấn uyên bác, mà đến với một tiếng nói từ trong bóng tối, một ý thức tạm thời thốt ra sự phức tạp, rắc rối của chính nó trong sự trở ngại và nỗi thống khổ. Sự đổi hướng này được đi cùng với quyết định viết bằng tiếng Pháp của Beckett.
Tiếp sau đó, trong khoảng thời gian từ năm 1946 đến 1950, “một sự điên cuồng trong sáng tác” làm cho Beckett nổi tiếng với những tác phẩm: Waiting for Godot và bộ ba tiểu thuyết Molloy, Malone Dies và The Unnamable.
Và Trong khi chờ Godot
![]() |
Richard Howard và Richard S. Iglewski trong Waiting for Godot, do Alan Schneider đạo diễn, năm 1980-82 |
Thành công của vở kịch tại Paris đưa đến một cuộc bàn luận tầm quốc tế và sự quan tâm đông đảo của công luận. Những người ủng hộ cho vở kịch này nhận ra rằng nó miêu tả một sự chuyển hướng mới và triệt để trong thế giới kịch.
Trong khi chờ Godot được ca ngợi như là một thành công của trí tuệ, vở kịch quan trọng và cách mạng nhất của thế kỷ 20 và cũng được giới văn học đánh giá là tác phẩm quan trọng nhất trong sự nghiệp của Beckett.
Beckett đã cách mạng hóa kịch hậu chiến và là một ngôi sao Bắc Cực được thừa nhận cho rất nhiều tiểu thuyết gia, họa sĩ và nghệ sĩ có liên quan đến thị giác. Ông là một hình tượng văn học lớn.
Cùng với Yeats và Joyce, Beckett là một trong ba văn sĩ Ailen - những người đã thay đổi văn học của thế kỷ 20. Tấm gương của Beckett hiện hữu như một người dũng cảm và không chùn bước khám phá những góc đen tối nhất và đau khổ nhất của trải nghiệm trong cuộc sống loài người.
__________________
1 Jonathan Swift (1667 – 1745) là một nhà văn Ailen gốc Anh, nổi tiếng với “Gulliver's Travels”, “A Modest Proposal”, v “A Tale of a Tub”.
2 John Millington Synge (1871 - 1909) là nhà viết kịch, nhà thơ, tiểu thuyết gia và là một nhân vật quan trọng cho thời kỳ phục hưng văn học Ailen.
3 Jack Butler Yeats (1871-1957): một trong những nghệ sĩ quan trọng nhất của Ailen
4 James Augustine Aloysius Joyce (1882 – 1941): nhà văn, nhà thơ Ailen và được thế giới thừa nhận là một trong những văn sĩ có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận