16/07/2005 16:47 GMT+7

Ông thầy khó tính

TRẦN HUYỀN ÂN
TRẦN HUYỀN ÂN

TTCN - Mấy năm trung học, mặc dù nơi ngôi trường kháng chiến giữa vùng quê, tôi may mắn được học văn với ba vị danh sư. Thầy Bửu Thọ, thầy Bùi Bình Hiếu (tức thi sĩ Bùi Khai Nguyên) và thầy Võ Hồng. Lúc ấy (năm 1949), thầy Võ Hồng nguyên là trưởng Ty Bình dân học vụ tỉnh Phú Yên được chuyển sang.

VPDr35x9.jpgPhóng to
TTCN - Mấy năm trung học, mặc dù nơi ngôi trường kháng chiến giữa vùng quê, tôi may mắn được học văn với ba vị danh sư. Thầy Bửu Thọ, thầy Bùi Bình Hiếu (tức thi sĩ Bùi Khai Nguyên) và thầy Võ Hồng. Lúc ấy (năm 1949), thầy Võ Hồng nguyên là trưởng Ty Bình dân học vụ tỉnh Phú Yên được chuyển sang.

Thầy Võ Hồng không nghiêm như thầy Bửu Thọ, nhưng không dễ gần như thầy Bùi Bình Hiếu. Giữa thầy và học sinh có một khoảng cách đủ để chúng tôi ít muốn phải gặp thầy. Chuyện này cũng xảy ra với nhiều vị giáo sư khác, đó là lẽ thường.

Một hôm buổi trưa tôi đến lớp để học bài làm bài vì nhà trọ chật, thêm mấy đứa nhỏ hay la giỡn ồn ào, đang ngồi cặm cụi, chợt ngẩng lên thì thấy thầy Võ Hồng. Chắc thầy cũng cần một chỗ yên tĩnh để chấm bài. Một cuộc gặp thật tình lúc đầu tôi không mong muốn, nhưng may sao, tiền hung hậu kiết, sau đó tôi thấy thật vui. Là vì sau khi hỏi thăm quê quán, biết tôi là thằng học trò nhỏ tận một làng miền núi xuống học, thầy hỏi hoàn cảnh gia đình, tên cha mẹ.

Tôi không ngạc nhiên khi nghe thầy nói biết cha tôi vì tôi đã nghe cha tôi nói biết thầy khá rõ, từ việc học hành đến bước vào đời. Tôi cảm thấy hình như khi biết tôi là con ông Trần Huyền Đoan, một nhân sĩ Nho học, cái nhìn của thầy Võ Hồng với tôi có khác hơn.

Thầy Võ Hồng dạy chúng tôi những đoạn văn của Hồ Phương (trong Thư nhà), Kim Lân (trong Làng), thơ Tố Hữu (Ly rượu thọ), văn dịch của Gustave Flaubert (Bà Bovary), Ilya Erhenbourg (Thời gian ủng hộ chúng ta). Lúc giảng bài có khi thầy hơi mơ màng, có khi vừa giảng vừa vẽ lên bảng đen những hình minh họa đường nét uyển chuyển và sinh động.

Tuổi trẻ chúng tôi bị cuốn hút bởi hình ảnh người lính một đêm tối trời vượt qua dòng sông rộng “Thoang thoáng gió biển, chao ôi, Đông Triều - Hòn Gai”, cũng như hình ảnh “Dòng suối đổ vào sông, dòng sông đổ vào dải trường giang Volga, trường giang Volga đi ra biển. Tình yêu nước bắt đầu từ tình yêu làng xóm, yêu cái cây trồng trước nhà, yêu con phố nhỏ chạy ra bờ sông”.

Trong tháng ngày khói lửa qua lời bình giảng của thầy Võ Hồng, tôi hiểu thêm “chiến tranh khiến cho mỗi chúng ta nhận ra vẻ thanh tú của quê hương”, trong tưởng tượng xa xôi tôi bắt gặp tâm tư “chàng trai xứ Géorgie nhớ bóng thùy dương tư lự”, cảm nhận được sự nồng nàn của “rượu vang sẽ tu trong bọc đựng rượu bằng da dê”… và yêu kính người mẹ già của Mã Chiếm Sơn quật vỡ ly rượu thọ, đưa bậc dũng tướng trở lại phong cách anh hùng “trong hoa tuyết trắng ngần bay lả tả”…

Thầy cũng khuyến khích chúng tôi mạnh dạn trình bày ý kiến riêng về những chỗ cảm thấy chưa bằng lòng trong đoạn văn, nói rõ hơn là mạnh dạn… chê, không phải chỉ nhắm mắt khen theo. Nhờ vậy, khi học bài thơ Gò Côi của Nam Trân, tôi dám nói rằng bài thơ này không hay. Một thi sĩ đa tình từng bộc lộ: “Tôi xuống thuyền cô, cô chẳng biết/ Rằng Thơ thấy Đẹp phải tìm theo” lại viết một cách dễ dãi “Gò Côi từ độ khẩn hoang/ Sắn mì cùng với khoai lang tốt mù…”.

Thầy nói: “Ai chống nhồi sọ chớ tôi chủ trương nhồi sọ”. Thầy bắt học sinh học thuộc đoạn văn trích giảng đã đành, còn phải học thuộc cả lời bình giảng về nội dung, hình thức đoạn văn ấy nữa. Việc này đối với tôi không khó, gì chớ học thuộc lòng là sở trường của tôi, thế nhưng với nhiều bạn thật là con đường gian khổ.

Khác với thầy Đinh Thành Bài dạy toán, vật lý… rất nóng tính, trò nào chậm chạp là lập tức bị đuổi xuống, “zéro”, thầy Võ Hồng không cho zéro, thầy nói: “Cho zéro làm chi, để nói cho thấm cái xương”. Thấm cái xương thật, thầy chì chiết, mỉa mai, nụ cười nửa miệng, bĩu môi… khiến cho đứa không thuộc bài, không làm bài đau lòng nát ruột!

Thầy dặn chúng tôi khi viết cần phải biết quan sát, quan sát thật kỹ và ghi nhớ thật chính xác. Như nói về màu xanh không phải chỉ một màu xanh, không phải chỉ biết sự khác nhau của những màu xanh bằng chữ nghĩa, mà phải nhìn, phải thấy, màu xanh của trời, của biển, của núi, của mỗi loại cây cỏ, mỗi mùa đồng ruộng, tả làm sao cho người đọc hình dung ra được.

Về chính tả, thầy bắt mỗi đứa có một sổ tay, chia trang xếp theo vần ABC, ghi những từ khó. Muốn nhớ từ “át” (lấn át) thì ghi “Tiếng nó nói áT Tiếng tôi”, nhờ chữ T của từ Tiếng ta nhớ cuối từ áT là T. Muốn nhớ hai chữ “khoang” có G thì ghi “Hai con chó khoang nằm trong khoang thuyền”. Chỉ có một chữ “mãng” (con mãng xà) - còn lại là mãn và mảng - thì ghi “Chỉ có MỘT con MÃNG xà có G dấu NGÔ. Để phân biệt những từ bắt đầu bằng D và GI thầy trò cùng đặt những câu dài, D theo D, GI theo GI, lúc cần đọc lên như đọc thần chú. (Sau này, tôi có bắt chước cách dạy này và học sinh của tôi xem ra cũng thích thú lắm).

Khi thầy kiểm tra, đứa nào không có sổ tay hay sổ tay không ghi đầy đủ thì sẽ nghe những lời… cho thấm cái xương. Văn phạm cũng được thầy dạy kỹ, giống như sách của Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm. Từ những bài học đó đến nay tôi còn nhớ nào là mệnh đề chính, mệnh đề phụ, nào là mệnh đề phụ chỉ định, mệnh đề phụ chỉ trường hợp... để câu văn chặt chẽ hơn. Ngay sau nhiều danh từ quốc ngữ thầy cho ghi chữ Pháp trong ngoặc để tiện đối chiếu. Một hôm, sau giờ Việt văn, giáo sư Pháp văn vào lớp nhìn bảng đen chưa xóa ngạc nhiên hỏi: “Ai đã dạy grammaire vậy?”.

Lần đó, một anh bạn làm bài hơi bị ngắn, lời phê của thầy là: “Anh làm bài ngắn như học sinh lớp 2!”. Sau này bạn ấy là một cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh. Thế mới biết giữa hai con đường học vấn và công danh cách nhau một trời một vực!

***

Tôi viết đến đây thì anh bạn N.V.B. nhắn tin ra cho biết thầy Võ Hồng rất yếu. Hội thầy trò Lương Văn Chánh và Trường Lương Văn Chánh liền cử mấy anh em vào thăm thầy.

Thầy nằm một mình trên căn gác 51 Hồng Bàng, Nha Trang, giọng nói yếu đuối, xúc động, muốn gượng ngồi dậy mà không ngồi được.

Một vài bạn thầy không nhớ, chúng tôi phải nhắc lại. Chung quanh thầy là sách và sách. Có cuốn mới in, có cuốn đã lâu năm. Và sách của một số tác giả là học trò tặng thầy. Tôi có cảm tưởng như thầy đang muốn nhìn lại một thời gian cầm bút và cả những gì lớp hậu sinh đang làm.

Ngồi với thầy một chặp, thấy thầy vui hơn, khỏe hơn, da mặt có phần hồng hào, như có sự phục hồi.

Chúng tôi nghĩ phải chăng vì lâu nay thầy đã ít vận động, ít đi đó đi đây, bây giờ nằm một mình, thiếu người tâm sự, không được trang trải tỏ bày… nên căn bệnh “tuổi già” dễ làm thầy sa sút? Như vậy, nếu có người hằng ngày đến trò chuyện chắc thầy sẽ thấy dễ chịu hơn.

TRẦN HUYỀN ÂN
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên

    Tuổi Trẻ Online Newsletters

    Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

    Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất