![]() |
Nơi ở của con người dần dần lấn nơi ở của tê giác - Ảnh: Y.T. |
Xem video clip Những con tê giác cuối cùng
Kỳ 1: Đi tìm “thần dược” Kỳ 2: Theo dấu chân tê giác Kỳ 3: Tê giác “khóc”!
Đi không được, ở không xong!
Bị các thôn dân cư bao vây nên quần thể tê giác VN chỉ hoạt động trong phạm vi hẹp, sinh cảnh chất lượng thấp. Năm 1998, xã Đồng Nai Thượng được qui hoạch với diện tích trên 1.800ha, tách ra khỏi diện tích Vườn quốc gia Cát Tiên, nhưng nằm ở vị trí cắt đôi khu bảo tồn tê giác Cát Lộc. Do vậy, tê giác không thể mở rộng vùng phân bố về phía Lộc Bắc, nơi có sinh cảnh tốt hơn.
Việc kết hợp giữa công tác bảo tồn và phát triển luôn là bài toán khó đối với Vườn quốc gia Cát Tiên và các khu bảo tồn thiên nhiên khác. Ở Cát Lộc, bài toán này càng khó gấp bội. Nhiều người đã nghĩ đến chuyện gây lại quần thể tê giác một sừng VN bằng cách nhập tê giác từ Vườn quốc gia Ujung Kulon (Indonesia). Tuy nhiên, phương án này được cho là không khả thi, vấn đề không chỉ là chi phí quá lớn mà do hai loài tê giác này có những khác biệt về thể chất nên có lẽ không thể phối giống. Điều này cũng có nghĩa là nếu tê giác Cát Tiên tuyệt chủng, toàn bộ loài này cũng sẽ tuyệt chủng trên thế giới.
Phương án khác cũng được tính đến là di dời tê giác về khu Nam Cát Tiên. Ông Phạm Hữu Khánh, phó giám đốc Vườn quốc gia Cát Tiên, cân nhắc: “Cách này giúp tăng giá trị khu rừng được tái thả tê giác. Loài thú quí hiếm này sẽ được tung tăng trong một không gian an toàn hơn. Tuy nhiên, ngôi nhà cũ của tê giác - rừng Cát Lộc - có nguy cơ bị xóa sổ. Điều đáng ngại nhất là tính rủi ro cao trong việc bắt giữ, nuôi nhốt và tái thả trong điều kiện sinh thái mới. Việc di dời đã làm chết những con voi Tánh Linh trước đây là bài học xót lòng”. Theo ông Khánh, “sống chung với tê giác” chưa phải là một giải pháp khả thi, mặc dù một số người cho rằng khi giáo dục ý thức bảo vệ tê giác tốt, đời sống ổn định, người và thú hoang dã có thể “chung sống hòa bình”, cách để đời sống người dân được cải thiện là thông qua du lịch sinh thái!?
Có một thực tế là những người phá rừng tại khu vực này không phải vì thiếu đất. Ở Indonesia giữ được tê giác vì người dân rất ít sống trong rừng. Nepal nghèo hơn VN nhưng người dân rất có ý thức và luật pháp rất nghiêm khắc. Còn ở VN, những ngọn đồi trong khu bảo tồn đã và đang bị băm nát là lời cảnh báo nghiêm khắc. Ngoài ra, mỗi gia đình người dân ở đây có khoảng 10 đứa con. Ai dám tin rằng với dân số tăng theo cấp số nhân giữa rừng, họ lại không đi đốt rừng lấy đất? Đó là chưa kể khi có giấy chủ quyền, họ có quyền sang nhượng, buôn bán đất cho di dân tự do đến.
Dự án “treo” rồi sửa
![]() |
"Sống chung với tê giác" và bảo tồn tê giác: phải chọn một! - Ảnh: Y.T. |
Tuy nhiên, đùng một cái, đầu năm 2007 Vườn quốc gia Cát Tiên nhận được quyết định: không di dời thôn 3, thôn 4 mà tổ chức cho dân định cư tại chỗ! Một lần nữa số phận con tê giác bị bỏ lên bàn cân. Phương án “sống chung với tê giác” lại được “khai quật”. Lý do không di dời được đưa ra là thiếu kinh phí. Những quyết định trái ngược nhau khiến ông Trần Văn Mùi, giám đốc Vườn quốc gia Cát Tiên, bức xúc: “Sao chuyện bảo tồn mấy con tê giác đã bàn mười năm nay mà cứ ì ạch mãi?”. Ông Mùi phân tích lại điều nghịch lý mà ông đã nói từ nhiều năm trước: Kế hoạch phát triển dân sinh trong khu bảo tồn còn chưa được đồng bộ. Một mặt khu vực cần được bảo vệ chịu sự quản lý từ Bộ Nông nghiệp - phát triển nông thôn với mục đích chính là bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên của vùng, mặt khác chính quyền các cấp (tỉnh, huyện, xã) lại lập và thực hiện những kế hoạch không chú ý đến chức năng chính của vùng là bảo tồn hệ sinh thái. Có một kế hoạch đang kéo đường dây điện, điện thoại cho các hộ sinh sống ở trong khu bảo tồn; một kế hoạch khác dự định nâng cấp đường; một nhà tài trợ nước ngoài muốn xây những chiếc cầu trong khu bảo tồn; một kế hoạch khác lại khuyến khích phát hoang rừng do khuyến khích phát triển nông nghiệp... Những chương trình dân sinh như thế khiến khu bảo tồn ngày càng thu hút người dân đến cư trú đông hơn.
Ông Mùi khẳng định: “Theo tôi, giải pháp tốt nhất là di dời dân đi nơi khác. Cánh rừng nguyên sinh này sẽ được trả về cho tê giác. Đời sống đồng bào cũng dễ nâng cao ở những khu vực xa rừng, có điều kiện đầu tư, phát triển tốt hơn”. Ông Khánh đã gắn bó gần chục năm với những con tê giác VN, kể về những chuyến đi nghiên cứu hàng tháng với mưa và vắt trong rừng của các nhà khoa học. Trong đó có những người đến từ nhiều đất nước xa xôi, có người trên 70 tuổi cũng từ Hà Nội lặn lội vác balô vào rừng, đấu tranh mãi để giành giật sự tồn tại và sinh trưởng của những con tê giác VN cuối cùng trong niềm tự hào. Vậy mà, ông Khánh kể: “Có một vị cán bộ còn nói (không biết vị này nói thật hay đùa): có mấy con tê giác thôi thì có gì mà ầm ĩ?! Có lúc tưởng chừng như chúng ta đang đấm vào không khí!”.
Rời khu bảo tồn tê giác Cát Lộc, bên đường thấy nhiều dãy rừng bị đốt cháy nham nhở, chúng tôi thấm thía nỗi băn khoăn của ông Mùi: “Không có chuyện vừa bảo tồn tê giác vừa phát triển dân cư ở rừng. Trong hai phải chọn một. Phải làm gấp họa may còn kịp. Nếu không, để mất tê giác rồi chúng ta có lỗi với thế hệ mai sau”.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận