![]() |
Năm nay, các thí sinh lại đang đứng trước một sự lựa chọn: thi vào ngành nào, trường nào? - Ảnh: NHƯ HÙNG |
Chọn theo lượng thí sinh ĐKDT?
Lời cảnh báo từ ĐH Quốc gia TP.HCM ngay trong bảng tổng kết tuyển sinh 2003 của mình như sau: “Nhìn chung, các TS có tham khảo điểm chuẩn năm 2002 trong khi chọn ngành nên hệ số chọi các ngành tốp đầu không cao. Những ngành có hệ số chọi cao năm 2003 là những ngành năm 2002 có điểm chuẩn không cao, nhưng tên ngành hấp dẫn”.
Chính hai yếu tố “điểm chuẩn không cao” và “tên ngành hấp dẫn” đã thật sự thu hút lượng TS đăng ký dự thi (ĐKDT).
Có thể kể đến những cái tên ngành của Khoa kinh tế (ĐHQG TP.HCM) như kinh tế đối ngoại tỉ lệ chọi lên đến 1/22,5, kế toán - kiểm toán 1/23, tài chính tín dụng 1/18,9, tăng 4,9 lần so với tuyển sinh 2002.
Hoặc tại ĐH Bách khoa, nếu nhìn vào bảng dưới đây sẽ dễ dàng nhận thấy việc chọn ngành rất cảm tính của TS, khi mà tỉ lệ chọi luôn trồi sụt theo từng năm:
2000 | 2001 | 2002 |
2003 | |
Cơ điện tử | 1/16 | 1/6,4 | 1/12,9 | 1/6,7 |
Kỹ thuật hệ thống CN | 1/2 | 1/8,5 | 1/2,6 | 1/7,24 |
Hay một số ngành của Trường ĐH Sư phạm TP.HCM như toán năm 2002 có 4.520 TS ĐKDT thì năm 2003 chỉ còn 1.974 TS ĐKDT; ngành lý năm 2002 có 2.024 TS ĐKDT thì năm 2003 chỉ còn 1.328.
Ngược lại như ĐH Luật TP.HCM, năm 2002 ngành luật thương mại chỉ có 3.834 TS ĐKDT thì năm 2003 lại tăng lên 6.143; luật hành chính từ 1.605 năm 2002 tăng lên đến 2.277 năm 2003. Thật không dễ đoán định!
“Né” ngành vì điểm chuẩn cao
Một kiểu lựa chọn nữa cũng mang tính “truyền thống” của TS chính là kiểu lựa chọn theo sự... “sợ hãi” trước những ngành luôn có điểm chuẩn cao, dẫn đến tỉ lệ chọi các ngành này càng giảm xuống (xem bảng).
2000 | 2001 | 2002 | 2003 | |
Công nghệ thông tin (ĐHBK) | 1/24ĐC :23,5 | 1/21,7ĐC :21 | 1/13,7ĐC:19 | 1/7,46ĐC:20 |
Công nghệ thông tin (ĐHKHTN) | 1/13ĐC:26,5 | 1/10ĐC:22,5 | 1/10,1ĐC:21,5 | 1/6,61ĐC:24 |
Do TS lựa chọn kiểu này mà tuyển sinh 2003 Trường ĐH Bách khoa có lượng TS ĐKDT giảm 41% so với 2002, ĐH Khoa học tự nhiên giảm 32% so với 2002.
Mặc dù sụt giảm lượng TS ĐKDT, nhưng tất nhiên so với các trường khác, điểm chuẩn tuyển sinh của các trường này luôn ổn định ở tốp cao và luôn có một lượng TS có trình độ giỏi mơ ước theo học.
Chọn ngành vì tên... hấp dẫn
|
Giống như mọi năm và cùng cảnh ngộ, tại ĐH Kinh tế TP.HCM các ngành kinh tế chính trị nếu chỉ có 247 TS ĐKDT, ngành thống kê có 384 TS ĐKDT thì các “đồng nghiệp” khác cùng trường như quản trị kinh doanh có đến 12.885, tài chính - ngân hàng 10.250, kế toán - kiểm toán 7.596...
Ở nhóm ngành kỹ thuật tình hình cũng không khác mấy. Ngành cơ kỹ thuật của ĐH Sư phạm kỹ thuật TP.HCM tròm trèm chưa tới 300 TS ĐKDT, trong khi ngành cơ khí chế tạo máy cùng trường lại có số lượng áp đảo: 3.092.
Thậm chí Trường ĐH Giao thông vận tải TP.HCM cũng đã từng đau đầu khi đứng trước chuyện “ngành thì quá ít, ngành thì quá đông”, dẫn đến việc định chỉ tiêu, điểm chuẩn cho từng ngành cực kỳ khó khăn.
Như ngành khai thác máy tàu thủy 257, điện tàu thủy 251, đóng tàu công trình nổi 252, cơ khí chuyên dùng 283 TS ĐKDT... thì cùng trường có ngành số TS ĐKDT lại vọt lên gần 4.000 như ngành xây dựng cầu đường.
Chính việc chọn ngành theo cảm tính của TS đã thật sự đẩy các trường lâm vào thế bí trong việc xác định điểm tuyển.
Thật khó ngờ ngay tại ĐHQG TP.HCM là ĐH Bách khoa đã phải tuyển ngay NV3 từ khi công bố điểm chuẩn, và tiếp theo sau là hàng loạt trường ĐH công lập khác cũng phải công bố điểm chuẩn xét tuyển NV3 vì lượng TS đến nhập học thiếu so với số lượng gọi.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận