![]() |
"Cô gái bên hoa huệ"của Tô Ngọc Vân |
Sự phức tạp và tinh tế của hoạt động nghệ thuật rộng hơn rất nhiều các quy định hiện hành. Các quy định hiện hành mới nói lên rằng nó đang coi nghệ thuật là kinh doanh mỹ nghệ đơn thuần, không đáng là bao trong kinh tế toàn thể.
Trong lịch sử cũng như trong hiện tại, nước ta chưa có luật cho hoạt động nghệ thuật. Đó là vì hoạt động này chỉ được đánh giá trên mặt tư tưởng, chứ không phải là kinh doanh. Người thợ thủ công phong kiến cần biết rõ rồng ở đâu thì chạm 5 móng, hoặc 4 móng, tên ông vua nào phải kỵ húy, ngoài ra anh ta tha hồ sao chép mẫu mã của người khác, đóng một khoản thuế cố định và hài lòng làm công dân hạng ba, dưới cả nông dân.
Ông Đức Minh là người có ý thức sớm nhất về việc này, phần vì ông là nhà kinh doanh, phần rất am hiểu nghệ thuật theo nghĩa rộng, không đơn thuần chỉ là nghệ sĩ với tác phẩm. Khi mua tranh, ông đòi hỏi người bán viết hóa đơn xác nhận quyền sở hữu, mô tả tình trạng tranh, giá tranh và ký tên. Việc này làm cho nhiều họa sĩ rất khó chịu, nhưng thời gian đã chứng minh rằng ông sáng suốt.
Cho đến nay nghệ sĩ VN vẫn không có thói quen này, họ không hề biết tác phẩm của mình sẽ lưu lạc đến đâu sau khi bán. Một gallery sao chép tranh của họ, công khai treo bán, họ không biết kiện ai. Một họa sĩ lấy đúng phong cách của đồng nghiệp vẽ và bán rẻ hơn, đồng nghiệp kia cũng chịu. Một cơ quan mỹ thuật đem tranh của họa sĩ đi triển lãm nước ngoài, làm mất, làm hỏng, lịch thiệp nhất là xin lỗi và cầu hòa. Một đơn vị nọ in tranh làm lịch kiếm bạc tỷ, mà không trả cho họa sĩ thậm chí dù chỉ một quyển lịch...
Tất cả những điều trên đây là thường nhật, mà mọi quy định được ban hành không đủ tính pháp chế hiện thực. Mức phạt hiện nay cho việc chép tranh trái phép là 10 triệu đồng hoặc hơn. Vậy là có thể chép tranh của Nguyễn Sáng, Nguyễn Phan Chánh bán vài chục nghìn đô, rồi nộp phạt như trên, thậm chí có thể nộp một nửa, mà không viết hóa đơn thì càng thích. Lại có thể sao chép tranh của một họa sĩ đã chết 30 năm, thế thì tốt quá, vì đây mới chính là đối tượng cần sao chép...
Về đại để người ta có thể chép lại một bức tranh với mục đích học tập, nghiên cứu, không kinh doanh và không trùng kích thước với tác phẩm chân bản. Việc này thì mọi người trong quá trình yêu thích, học nghệ thuật đều làm và căn bản không xác định được. Vậy thì việc chép tranh với mục đích kinh doanh, số lượng nhất định, nếu có đăng ký, thay đổi kích thước và được tác giả đồng ý, được coi là hợp pháp trong chừng mực nào? Hiện trong nước tình trạng chép tranh và tranh giả có những biểu hiện:
1. Chép lại tranh y như thật, không hỏi tác giả và kinh doanh.
2. Phóng to bản chép nhằm bán đắt hơn.
3. Chuyển thể chất liệu, dùng ký họa vẽ ra chất liệu sơn dầu, sơn mài, lụa, hoặc từ tranh sơn mài vẽ y một cái như thể bằng sơn dầu.
4. Dùng đúng một phong cách nào đó đang bán chạy, vẽ tranh khác, ký tên khác, bán giá rẻ hơn (ví dụ nhại phong cách của Đỗ Quang Em).
5. In các tác phẩm hội họa lên lịch, áo phông, đồ ứng dụng... không hỏi và không trả nhuận bút cho tác giả.
Một bộ luật rộng nhất cũng không thể bao hàm hết các hoạt động có thể phát sinh hàng ngày, nhất là những hoạt động có thể lựa theo chỗ bất cập của luật mà uốn éo lách luật... như kinh doanh nghệ thuật. Do vậy mà luật nghệ thuật trước tiên chỉ có thể bảo vệ những cái chính yếu về văn hóa, những di sản nghệ thuật quan trọng, những nghệ sĩ quan trọng và tác phẩm của họ.
Hồ sơ các di sản và những nghệ sĩ trọng yếu cần được kê biên với những xác minh chính xác và nghi vấn, như đối tượng hàng đầu của luật nghệ thuật. Việc xếp hạng các di tích hiện nay mới chỉ dừng lại ở con số nhất định, vô hình chung không coi những di tích chưa được xếp hạng vào danh mục cần bảo vệ. Rất nhiều đồ cổ, tượng quý nằm rải rác trong các di tích nhỏ.
Cũng như đáng lẽ phải cấm hoàn toàn việc tô mới tượng Phật và đồ cổ trên toàn quốc, thực chất là làm biến dạng hoàn toàn các di sản nghệ thuật. Sách và đồ cổ từ thế kỷ 19 trở về trước, hoặc có thể là muộn hơn với mốc 1945, phần nào được bán ra nước ngoài, phần nào chỉ lưu hành trong nước.
Điều này được công khai mới ngăn chặn nạn bán tháo đồ cổ ra nước ngoài và nỗi lo sợ chết khiếp bị tịch thu đồ cổ như trước đây. Và mới tiến tới công khai hóa các sưu tập, bảo tàng tư nhân, cũng như quốc gia được ưu tiên gia hạn thời gian mua đồ cổ trước tiên, khi tư nhân muốn bán. Phần các danh họa trong nước hiện đại trong thế kỷ này, chúng ta chỉ ca tụng suông, mà chẳng làm gì giữ gìn các tác phẩm của họ.
Bảo tàng Mỹ thuật chỉ mua được số ít, phần lớn trôi nổi trong các sưu tập tư nhân, rồi tuồn ra nước ngoài, kể cả các tác phẩm quan trọng như Cô gái bên hoa huệ của Tô Ngọc Vân, Chơi ô ăn quan của Nguyễn Phan Chánh. Xác minh một danh mục tác giả và tác phẩm ưu tiên bảo vệ như tài sản văn hóa càng sớm càng tốt, tình trạng tranh giả liên quan đến họ cũng ít hơn.
Các quy định xử phạt bản quyền trong mỹ thuật còn rất lúng túng để hiện hành. Bản thân họa sĩ cũng không thể cứ vẽ ra mỗi bức tranh là đi đăng ký bản quyền, cũng như việc kiện tụng sẽ tốn kém, nên họ mặc kệ. Đối với nền kinh tế, việc bán tranh giả không ảnh hưởng nhiều, mà chỉ phá giá và làm mất uy tín cho tác giả, nhưng nguy hại là làm hỗn loạn hoạt động văn hóa, tung ra đời sống những phiên bản cấp thấp.
Trong luật về nghệ thuật thì trừng phạt danh dự có hiệu quả hơn phạt tù và tiền. Ví dụ một gallery, một sưu tập, một họa sĩ bị đưa lên công luận có dính dáng đến làm tranh giả thì công việc làm ăn sẽ sập tiệm không lâu, họa sĩ không thể mở mặt cả đời. Do vậy nên bắt buộc mỗi cơ sở bắt đầu kinh doanh, mỗi sinh viên thi vào trường mỹ thuật phải ký cam kết không tham gia vẽ và bán tranh giả. Việc chặn ngay từ gốc và trừng phạt danh dự, thích hợp với tính phức tạp của kinh doanh nghệ thuật hiện tại, không bị các tiêu cực tham nhũng khuyến khích kinh doanh nghệ thuật tiêu cực hơn.
* Chuyện thị trường nghệ thuật VN: Họa sĩ là ai?* Có thị trường nghệ thuật hay không?* Hỗn loạn tranh giả* Thăng trầm Gallery
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận