01/05/2008 18:02 GMT+7

Ký ức không quên - Kỳ cuối: Những vết thương không thể cứu chữa

JONATHAN SCHELL
JONATHAN SCHELL

TTO - Người Mỹ đã đổ rất nhiều người và của cải, vật chất vào Việt Nam, nhưng không bao giờ có thể “bù đắp lại” được những đau khổ người dân Viết Nam phải chịu đựng do quân đội Mỹ gây ra hoặc có thể xóa bỏ được những việc quân Mỹ đã làm. Những tội ác thường đã đến mức tận cùng, không thể nào cứu chữa được...

Jonathan Schell là một giáo sư và là một cây bút nổi tiếng với nhiều bài báo đăng trên The Nation, The New York, và Tom Dispatch. 1967, ông đã có mặt ở Việt Nam, đã hiện diện trên những chiếc máy bay mang bom thả xuống núi đồi, đồng ruộng, làng mạc và những con người Việt Nam. Và từ đó, ông đã "phát hiện ra đặc điểm kỳ lạ của cuộc chiến tranh này": sự vô nghĩa. Ký ức không quên là những gì ông tận mắt thấy và "ghi nhận với hy vọng rằng điều đó sẽ giúp tất cả người Mỹ hiểu được tốt hơn điều chúng ta đang làm".

TTO xin lược trích và giới thiệu với bạn đọc tác phẩm này theo ấn bản của First News, NXB Trẻ phát hành nhân dịp kỷ niệm 30-4-2008.

2584vukp.jpgPhóng to

Hổ thẹn và kinh sợ

Trong buổi chiều bay cùng thiếu tá Ingersol trên bầu trời Quảng Ngãi, tôi thấy những đàn trâu đằm mình trong làn nước sông trong veo. Nhiều nông dân đang khom mình lao động trên đồng nước và trước sân nhà. Rải rác đó đây là những khoảng đất màu xám hoặc đỏ quạch, dấu vết để lại của những ngôi nhà bị phá hủy. Nhiều khoảnh ruộng bây giờ chỉ còn là hố bom, cánh rừng trên sườn đồi đã ngả màu đen kịt và lồi lõm.

Trên hai quả đồi liền nhau, đỉnh cao chừng ba mươi mét và chân đồi rộng gần hai trăm mét, bom đã tiêu hủy rừng cây và để lại những hố bom cái nọ chồng lên cái kia. Mỗi loại địa hình, núi, ruộng và sân nhà dường như đều nhận được một lượng bom như nhau, như thể là các phi công ném bom có ý định phân phát một số thuốc nổ bằng nhau cho các khu vực được đánh dấu ô vuông trên bản đồ của họ. Trên các ruộng lúa và sân vườn, cũng có những hố bom nhỏ hơn do pháo cày xới, song chúng không đủ lớn để có thể nhìn thấy dưới tán rừng rậm rạp này. Nhiều hố pháo mới còn giữ sắc vàng, còn tất cả các hố bom đều đã phủ một lớp cây lúp xúp và xem ra đã có từ nhiều tháng trước.

Sau khi đã khảo sát xong khu vực tác chiến sắp tới, thiếu tá Ingersol bay về phía Nam qua nhiều dãy núi hướng về thung lũng sông Trà Khúc ở phía Bắc tỉnh Quảng Ngãi. Trên đường bay, Ingersol mải mê ngắm nhìn những thác nước. Anh mô tả rất chi tiết cho tôi biết dưới chân thác nước có hồ nhỏ hay không, nước có chảy đổ xuống từ trên vách đá hoặc chảy qua những tảng đá hay không và thác nước có mấy tầng. Một trong những thác nước mà anh ta rất thích - một ngọn thác đổ từ trên cao xuống một hồ lớn có đáy bằng đá, nước trong veo ở chân thác - đã bị trúng bom. Anh ta nói:

- Chúng mới đẹp làm sao. Đây là một số trong những miền núi non đẹp nhất mà tôi từng được thấy. Thật hổ thẹn khi chúng ta lại hủy diệt nó...

Về căn cứ, trong khi chúng tôi đang trò chuyện thì một viên đại úy ngồi gần đó nhận được một cuộc điện thoại. Sau khi gác máy, anh ta nói với viên thiếu tá:

- Đại tá gọi đấy. Ông ta muốn thiêu rụi hai làng đó. Ông ta nói đây là yêu cầu của tỉnh trưởng.

Một trung úy dáng cao và trẻ mặc bộ đồ dã chiến có áo lót sơ mi đang ngồi ở phía bên kia lán hỏi xen vào:

- Thế còn dân làng thì sao?

Viên đại úy trả lời:

- Đại tá nói chúng ta sẽ không đưa người tỵ nạn nào đi cả.

- Ngài định nói gì vậy? Làm sao chúng ta có thể đốt làng mà không sơ tán dân đi?

- Đó là lệnh của đại tá!

Viên trung úy đứng phắt dậy và nói:

- Phải nhớ rằng chúng ta đã có luật tác chiến, chúng ta không thể đốt làng mà không chú ý đến dân. Đó là điều kỳ quái! Chúng ta có thể tôn trọng một vị đại tá hay không khi ông ta ra một mệnh lệnh như thế. Tôi muốn nói đây không phải là trò đùa đâu. Đúng không?

- Ông tỉnh trưởng bảo chúng ta làm như thế. - Viên đại úy nói.

Viên trung úy lại ngồi xuống.

Một thượng sĩ thuộc Phòng Tác chiến thốt lên:

- Người Việt Nam có thể tự tìm chỗ ở khác. Đó là cách của họ. Cứ khoảng hai năm, họ lại lên đường tìm một chỗ ở mới. Đó cũng là cách người ta đã làm ở Triều Tiên. Tại đó, các ngôi làng không bị triệt hạ nhưng dân làng vẫn thu dọn đồ đạc và đi tìm chỗ khác...

Sau này, tôi nói chuyện với một đại úy Việt Nam Cộng hòa, một người đã nhiều lần đến các tỉnh phía Bắc từ sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, anh ta bày tỏ sự kinh sợ trước các chính sách của quân đội Mỹ ở vùng quân đoàn I trong khoảng một năm qua. Anh than thở:

- Quân Mỹ đã hủy diệt mọi thứ, nếu họ bị một phát súng ở một làng bắn ra là họ sẽ tiêu diệt cả làng đó. Chúng tôi có cảm giác là phòng Dân sự của Mỹ xây dựng một làng còn Phòng Tác chiến sẽ hủy diệt làng đó. Tôi giúp phân phát gạo và vật liệu xây dựng cho một làng và ba ngày sau làng đó bị ném bom triệt phá hoàn toàn. Họ ném bom những làng có cả gia đình anh em binh sĩ chúng tôi đang sống. Một anh lính từ Sài Gòn trở về và thấy gia đình của mình đã bị giết hết. Họ ném bom cả người giàu lẫn người nghèo. Người Mỹ ném bom cả vào trụ sở dân vệ địa phương. Ai vẽ ra chính sách mới này vậy? Người Mỹ không bao giờ tìm cách bảo vệ làng xóm. Chỉ cần một Việt Cộng – một người thôi - với một khẩu súng máy vào bất kỳ làng nào. Người Việt Cộng đó bắn vào quân Mỹ và thế là cả làng này bị ném bom.

Không thể bù đắp

Trên đường từ Tam Kỳ trở lại Chu Lai, chiếc xe Jeep chở tôi tình cờ dừng lại ở khu vực tập kết dân. Khoảng hơn trăm dân các làng từ nhiều nơi trong khu vực hành quân Benton đang tập trung trên một nền bê tông xi măng, cỡ bằng nửa sân bóng rổ, có lợp mái tôn, cột nhà bằng kim loại. Nền nhà nằm ở giữa một bãi đất trống đầy cỏ, nhiều bụi cây và cát sỏi, không có cây to.

XGKgMqjb.jpgPhóng to

Với sự giúp đỡ của một thông dịch viên, tôi biết được trong số dân này có nhiều người đã sống xung quanh hai nhà thờ bị ném bom ở Thạnh Phước. Tôi hỏi nhóm người xúm quanh tôi rằng họ đã đi đâu khi cuộc ném bom bắt đầu, và được nghe những câu trả lời tới tấp:

- Chúng tôi chui xuống hầm.

- Chúng tôi không ra ngoài suốt ba ngày. Chúng tôi không có gì để ăn.

- Tôi muốn quay lại để tìm bà chị.

- Nhà tôi đã bị ném bom.

- Chúng tôi không có gì ăn ở đây cả.

- Ba người đã bị giết.

- Cho tôi xin cơm.

- Chúng tôi không có chăn ở đây.

- Toàn bộ nhà cửa bị ném bom rồi.

- Chúng tôi nấp trong hầm và đem theo bọn trẻ con.

- Chúng tôi không thể mang theo đồ đạc.

Tôi hỏi xem liệu họ đã tới được trại chưa và gia đình vẫn còn nguyên vẹn hay không.

- Cám ơn, các con tôi đã có mặt đầy đủ ở đây.

- Tôi không biết con gái tôi ở đâu.

- Các con gái tôi đã ở đây nhưng con trai tôi đi đâu không biết.

- Chồng tôi không có ở đây.

- Chúng tôi chẳng mang theo gì được cả.

- Tôi muốn quay về tìm ba tôi.

Hình như tôi là người Mỹ đầu tiên nói chuyện với họ và đương nhiên, họ nhầm tưởng tôi là người phụ trách, người có thể giúp họ. Khi một phụ nữ nói bà ta muốn quay về tìm thân nhân của mình thì ngay lập tức cả nhóm người này tỏ ra phấn khởi hy vọng.

- Các ông có cho trực thăng quay lại chở thêm người không?

- Tôi có thể trở về không?

- Tôi không có gì ăn cả.

- Các ông có đưa thêm người ra không?

Khi đề nghị tôi đưa trực thăng trở lại đón thân nhân của họ, một số người chỉ tay về phía ngọn núi xanh xanh ở tận cuối cánh đồng nắng cháy.

Những người đàn ông có mặt ở đó đều không trả lời gì trừ khi họ được hỏi trực tiếp. Khi được hỏi về gia đình, một ông già đội mũ cói, mặc quần áo bà ba đen như đa phần nông dân Việt Nam thường mặc, nói với giọng lễ phép quá mức rằng con trai ông là lính Cộng hòa và ngay lập tức nhiều bà cũng đồng thanh nói rằng họ cũng có con là lính Cộng hòa.

Một bà khác nói thêm:

- Con tôi vào lính Cộng hòa cách đây bốn năm và kể từ ngày đó tôi chẳng có tin gì của nó.

Rồi lại có tiếng một bà khác:

- Con tôi đi với Việt Cộng.

Một số bà dường như không tin vào thông dịch viên nên đã dùng điệu bộ động tác diễn tả để thu hút sự chú ý của tôi. Họ chìa bàn tay không ra để chứng tỏ họ không có gì cả, họ chỉ vào đám trẻ bẩn thỉu hoặc chỉ vào bụng và nhăn nhó mặt mày làm vẻ đáng thương hại để thể hiện những gì mà họ đang chịu đựng. Một bà túm tay áo tôi, kéo tôi đi vài mét, chỉ vào một đống quần áo và những chiếc nồi đen xì rồi nói: “Đây là tất cả những gì tôi có thể mang theo”.

Trong số người tụ tập ở khu nền xi măng, có vài người đang đứng nhìn với đôi mắt đờ đẫn và miệng há ra. Tôi hỏi một bà về những người này, bà ta nói: “Anh này đang lên cơn sốt. Nhiều người khác cũng bị sốt”. Bà ta lắc đầu và nói: “Bây giờ mà bị sốt là khổ lắm”.

Khi xe chúng tôi rời nơi đó, một chiếc trực thăng nữa hạ cánh. Một gia đình đã mất người cha leo ra khỏi máy bay và đặt chân xuống một đám đất trống, mỗi người mang một bọc nhỏ...

Cũng như nhiều đơn vị khác của quân Mỹ ở Việt Nam, bộ phận quân đội Mỹ làm công việc di tản dân làng Tuyết Diêm xong rồi tiêu hủy làng này đều nghĩ rằng những việc họ đang làm chỉ là giai đoạn đầu của một kế hoạch từ thiện dài hạn đối với toàn miền Nam Việt Nam, sau đó sẽ xây dựng lại đất nước này và thành lập một chính phủ dân chủ tự do.

Giai đoạn đầu của kế hoạch - tiến hành triệt phá các làng - thường được thực hiện một cách suôn sẻ, gây được niềm lạc quan rất mạnh đối với những người Mỹ làm công việc đó. Nhưng giai đoạn thứ hai - giai đoạn người Việt Nam cùng với các cố vấn dân vụ người Mỹ phải làm là xây dựng và tổ chức lại những làng như Tuyết Diêm, phải gắn kết toàn bộ xã hội lại – là một công việc khó khăn hơn nhiều. Trên thực tế, rất nhiều nơi cuộc sống của những người dân ở các làng mới dưới chế độ của chính phủ Nam Việt Nam là một cái lều bạt cho cả gia đình đông người chen chúc trong một trại tập trung do chính phủ dựng lên, hoặc ở trên một khu đất trơ trọi như ở Sơn Trà.

Nhiều người Mỹ có tư tưởng lạc quan, trong đó có các phóng viên báo chí, thường có khuynh hướng cho rằng việc triệt phá các làng xóm bằng nỗ lực quân sự được bù đắp lại tốt hơn nhờ hoạt động dân vụ sau đó. Họ coi hai kết quả của hai việc đó tách biệt nhau nhưng lại là “hai mặt” cân bằng của cuộc chiến tranh. Khi nhìn vào việc Mỹ đổ người và vật chất vào đây, họ thường hay có ấn tượng đẹp trước quy mô của nỗ lực kiến thiết, như thể là công việc này đang được thực hiện ở một nước nào khác. Họ quên mất một thực tế là cả hai chương trình đó đã và đang được thực hiện ngay tại cùng những tỉnh, những làng đã bị tàn phá và những người dân đang nhận phần gạo trợ cấp lại cũng chính là những người mà làng mạc, nhà cửa của họ đã bị hủy diệt vì bom đạn Mỹ.

Những thường dân Việt Nam cảm nhận kết cục của hai chương trình đó không phải là “hai mặt” trừu tượng của cuộc chiến tranh mà là hai sự việc kế tiếp nhau của một thực tế duy nhất trong cuộc sống hàng ngày của họ. Theo đó, sự trợ giúp của người Mỹ và chính phủ Nam Việt Nam không là gì so với những mất mát và đau khổ vô cùng to lớn họ phải chịu đựng.

Trong khi mở các cuộc hành quân tàn phá, quân Mỹ đã giết chết nhiều thường dân, nên trong con mắt của dân làng, các nhân viên Mỹ phụ trách công dân vụ dù có thể có thiện ý bao nhiêu chăng nữa, dù có một ngày nào đó có thể họ được cung cấp đầy đủ để đáp ứng yêu cầu của cuộc sống, cũng không bao giờ có thể “bù đắp lại” được những đau khổ người dân phải chịu đựng do quân đội Mỹ gây ra hoặc có thể xóa bỏ được những việc quân Mỹ đã làm. Những tội ác thường đã đến mức tận cùng, không thể nào cứu chữa được.

JONATHAN SCHELL
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên