09/07/2009 06:04 GMT+7

Hệ sinh thái tự nhiên ở đâu?

Tiến sĩ NGUYỄN CHÍ THÀNH
Tiến sĩ NGUYỄN CHÍ THÀNH

TT - Luật đa dạng sinh học đã có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2009. Đây là đạo luật đầu tiên ở nước ta liên quan đến quản lý đa dạng sinh học. Trước đây, vấn đề này đã được đề cập trong một số đạo luật có liên quan như: Luật bảo vệ và phát triển rừng, Luật thủy sản, Luật bảo vệ môi trường.

HRZCaYdp.jpgPhóng to
Phá rừng ở Chư Prông, Gia Lai để trồng cao su (ảnh chụp tháng 6-2008) - Ảnh: HÀNG TÌNH

Trong Luật đa dạng sinh học có một nội dung rất quan trọng là “Bảo tồn và phát triển bền vững hệ sinh thái tự nhiên”, bao gồm các hệ sinh thái tự nhiên trên cạn, các hệ sinh thái tự nhiên ở vùng đất ngập nước và các hệ sinh thái tự nhiên trên biển.

Hệ sinh thái tự nhiên được giải thích tại điều 3, Luật đa dạng sinh học là “Hệ sinh thái hình thành, phát triển theo quy luật tự nhiên, vẫn còn giữ được các nét hoang sơ”. Đây là một tiêu chí vô cùng quan trọng, là cơ sở khoa học và pháp lý cho các nội dung hướng dẫn thi hành Luật đa dạng sinh học. Luật đa dạng sinh học tập trung quản lý các hệ sinh thái mà ở đó có nguồn gốc là hệ sinh thái tự nhiên, đang phát triển theo quy luật tự nhiên và quan trọng là còn giữ được các nét hoang sơ.

Từ điển tiếng Việt định nghĩa hoang sơ là “hoàn toàn hoang dại, như ở thời nguyên thủy” (trang 451, Viện Ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng, 2003). Đây cũng là ý nghĩa lớn lao của Luật đa dạng sinh học khi đạo luật này được ra đời nhằm bảo tồn các hệ sinh thái tự nhiên ở nước ta vốn đang ngày càng cạn kiệt.

Tuy nhiên, hiện tại thật sự khó khăn khi xác định các hệ sinh thái tự nhiên theo quy định của Luật đa dạng sinh học, vì phần lớn hệ sinh thái đã bị tác động bởi con người, có nhiều nơi bị tác động rất nghiêm trọng. Rừng tự nhiên nước ta năm 2008 còn 10.348.591 ha (Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn, 5-2009), diện tích rừng tự nhiên giàu ở nơi cao, xa, hiểm trở có các hệ sinh thái tự nhiên ít bị tác động hơn các nơi khác chỉ còn 488.610 ha (tính đến 31-12-2005, theo số liệu của Viện Điều tra quy hoạch rừng), chiếm khoảng 4,7% tổng diện tích rừng tự nhiên của cả nước, diện tích còn lại phần lớn là các hệ sinh thái rừng đã bị tác động đến mức không còn trữ lượng gỗ để khai thác, những loài cây gỗ lớn quý hiếm gần như cạn kiệt.

Thực tế cho thấy các hệ sinh thái rừng tự nhiên vẫn đang bị xâm phạm và tàn phá hằng ngày, và hàng chục ngàn hecta rừng tự nhiên lá rộng thường xanh được quy hoạch là rừng sản xuất đã được quyết định chuyển thành rừng cao su từ nay đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020. Đất ngập nước tự nhiên là hệ sinh thái chịu tác động bởi chế độ thủy văn tự nhiên, nhưng ở đồng bằng sông Cửu Long, một vùng đất ngập nước lớn nhất VN, hệ thống các kênh thủy lợi cấp 1, cấp 2, cấp 3, bờ bao, đê ngăn lũ, các công trình ngọt hóa và mặn hóa mang lại sự phát triển kinh tế, đồng thời cũng làm cho quy luật phát triển tự nhiên và nét hoang sơ của các hệ sinh thái đất ngập nước tự nhiên không còn nữa và ở nhiều nơi đã bị thay đổi về bản chất.

Trình bày những thực tế nói trên, tôi muốn nói để bảo tồn và phát triển hệ sinh thái tự nhiên trước hết phải xác định các hệ sinh thái tự nhiên đang còn giữ được nét hoang sơ hiện ở đâu trên đất nước ta. Ngoài ra cũng cần xác định các giá trị đa dạng sinh học của các hệ sinh thái tự nhiên này để quy hoạch và xác lập các biện pháp bảo tồn.

Tiến sĩ NGUYỄN CHÍ THÀNH
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên