Đồng thuận xã hội và cải cách
![]() |
Một cuộc đình công của công nhân |
Bài học nóng hổi nhất về sự lệch pha này đang diễn ra trong lòng “sự thần kỳ” Trung Quốc. Hàng vạn cuộc đình công, hàng ngàn cuộc bạo động vì đất đai, môi trường, tham nhũng đã xói mòn sự đồng thuận về đường lối tăng trưởng kinh tế mà coi nhẹ bình đẳng (theo uyển ngữ của Đặng Tiểu Bình là “người giàu trước, người giàu sau”). Đến 2006, Quốc hội Trung Quốc vừa thông qua kế hoạch năm năm lần thứ 11, chuyển hướng sang một chính sách phát triển công bằng và trong sạch hơn, nhằm tạo ra đồng thuận mới.
Trong khi đó, đồng thuận xã hội với Đổi mới I ở VN có chiều hướng giảm sút nhanh khi tham nhũng ngày một tăng. Trong những năm 1980, cán bộ và người dân cùng chung cảnh khó khăn nên đã cùng hiểu ngầm, mưu tính rồi cùng nhau “tháo gỡ” sự trói buộc của cơ chế, để giải phóng cho chính mình (xem loạt bài “Đêm trước đổi mới”, Tuổi Trẻ cuối năm 2005). Hai mươi năm sau, khoảng cách thu nhập giữa quan chức và người dân ngày càng doãng rộng ra. Những vụ tham nhũng khổng lồ từ các dự án của Nhà nước (như PMU18) không thể không làm người dân đặt câu hỏi: cải cách kinh tế này thật sự vì ai?
Những cải cách thể chế về sau cũng phức tạp hơn, khó giám sát trực tiếp hơn. Không còn rõ ràng trắng đen như thời cán bộ cùng dân đấu tranh bỏ ngăn sông cấm chợ. Người dân mất dần năng lực tự mình biết, bàn và kiểm tra những cải cách thể chế ấy: cải cách ngày càng xa khỏi tầm tay của họ. “Làng ung thư” như xã Thạch Sơn (gần Nhà máy supe - phốt phát Lâm Thao), với 105 người chết vì ung thư và 33 người mang trọng bệnh chỉ trong 15 năm là một ví dụ cho sự bất lực của những nhóm bị thiệt thòi trong tiến trình tăng trưởng kinh tế.
Đã qua rồi thời mà dân chúng “tay trong tay” với chính quyền, với đồng thuận giản dị là: hãy cùng tháo gỡ những rào cản hiển nhiên để cho đỡ khổ. Đồng thuận xã hội mới, nếu có, sẽ phải được xây dựng thế nào?
Mâu thuẫn lợi ích và ổn định xã hội
Không có cách gì tránh khỏi một qui luật là thị trường phát triển làm cho các nhóm xã hội mạnh lên cả về tiềm lực vật chất lẫn sự tự ý thức về thân phận của mình (tuy với tốc độ và phạm vi khác nhau). Thêm vào đó, miếng bánh kinh tế ngày càng lớn lên khiến động lực tranh giành giữa các nhóm ngày càng mạnh mẽ. Nếu thiếu các thiết chế tương nhượng, các nhóm ấy không nhất thiết sẽ hành xử theo lối các bên cùng có lợi. Dù là nông dân nghèo miền Tây Trung Quốc, dù là người da đen trong các khu ổ chuột ở Mỹ, hay thanh niên thất nghiệp ở các ngoại ô nước Pháp, nơi đâu có các nhóm tự coi mình bị gạt ra lề và không có tiếng nói, nơi đó sẽ bất ổn.
Sự không tương xứng giữa sự phát triển của các nhóm xã hội với sự chậm chân của các thể chế điều hòa quan hệ của chúng thể hiện ra thành các mâu thuẫn xã hội ngày một tăng. Do thiếu cơ chế thương lượng, những nhu cầu rất chính đáng (như quyền cư trú, môi trường...) lại đẩy người dân đến những hành xử không chính đáng, như bạo động, bao vây, cản trở nhà chức trách.
Hãy lấy một vài ví dụ đã xảy ra về phản ứng ở qui mô nhỏ, cấp địa phương nhưng lại vượt ra ngoài các định chế pháp luật hiện hành: vụ 400 người tấn công cảnh sát nhằm chống việc xây sân golf ở xã Kim Nỗ, ngoại thành Hà Nội (tháng 12-2004), vụ hơn 100 người chặn xe rác nhiều ngày ở Tràng Cát (Hải Phòng) năm 2004, vụ 300 người bao vây các phóng viên liên quan đến vụ tranh chấp đất đai ở xã Phú Thượng (Hà Nội) tháng 10-2005. Những sự kiện này cho thấy vào những năm cuối của Đổi mới I, đã có những dấu hiệu của mâu thuẫn (vốn tất yếu) khi thiếu kênh thỏa hiệp dẫn tới những phản ứng chệch hướng.
Nhưng không việc gì phải lo sợ trước những xung động tất yếu phải có trong mọi cuộc cải biến xã hội. Chẳng phải là trong cuộc Minh Trị duy tân - vốn được coi là một trong những cuộc cải biến xã hội mau lẹ nhất, hòa bình nhất trên thế giới - đã có những phản kháng của tầng lớp samurai, của nông dân “bị” cưỡng bức giáo dục, của các nữ công nhân trong những nhà máy dệt? Vấn đề là xã hội giải bài toán phát triển cân bằng ra sao, và liệu có một viễn kiến được đồng thuận bởi các nhóm xã hội, để từ đó tìm ra những cơ chế tương nhượng.
Điều đáng lo lắng là xã hội đã nhìn rõ những mâu thuẫn lợi ích ấy chưa, hay để chúng phát triển một cách mù quáng, cản trở cải cách và xé nát xã hội. Xã hội đã sẵn sàng thể chế hóa sự có mặt của các nhóm lợi ích, vừa để họ tự bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ, vừa để tạo cơ chế giải quyết mâu thuẫn xã hội hay không? Xã hội đã chuẩn bị để hình thành một viễn kiến cho thời kỳ cải cách tiếp theo và các nguyên tắc tương nhượng và thỏa hiệp cho thời kỳ mới hay chưa? Còn gì đáng sợ hơn là có những nhóm xã hội từ bỏ hi vọng thấy được phần lợi ích của mình trong viễn kiến phát triển của đất nước?
Hai lời giải dở dang
![]() |
Ảnh: Đồng Hưng |
Nhà nước chỉ có thể làm hai việc:
Một là nâng đỡ để có thêm những người chơi mới đại diện cho các lợi ích mới hình thành, và tạo ra cơ chế thỏa hiệp để mâu thuẫn lợi ích không biến thành xung đột.
Trong Đổi mới I, các thiết chế xã hội chủ yếu vẫn dừng lại ở những gì mà Nhà nước đã tạo ra trong thời kỳ trước Đổi mới I. Hệ thống các tổ chức xã hội bị bao trùm bởi các tổ chức truyền thống như Đoàn thanh niên, Tổng công đoàn, Hội nông dân, Hội phụ nữ... Các tổ chức mang tính bao trùm này đã cố gắng thích ứng (như phong trào tình nguyện trẻ của Đoàn, hay chương trình tín dụng nông thôn của Hội phụ nữ).
Tuy thế, các tổ chức xã hội truyền thống này, với xu hướng tổ chức “từ trên xuống” đã và sẽ không thể phản ánh được những lợi ích ngày càng đa dạng. Sẽ sai lầm nếu kỳ vọng họ sẽ điều hòa những mâu thuẫn về đất đai, môi trường, quan hệ chủ - thợ...
Những quan tâm ở mức toàn quốc của Hội nông dân sẽ không đại diện được cho những vấn đề ở cấp địa phương, hay của từng nhóm nông dân khác nhau: mất đất quảng canh của người thiểu số do di dân tự do từ miền xuôi, hay sức ép dân số của đồng bằng Bắc bộ, hoặc sự từ bỏ ruộng đất của nông dân trẻ miền Trung để nhập cư đến các vùng công nghiệp ở miền Bắc và Nam.
Cũng vậy, chính sách của Tổng công đoàn không thể giải quyết được mâu thuẫn về việc làm giữa lao động trẻ từ nông thôn với lao động nghèo ở đô thị, hay những nhu cầu rất khác biệt của các nhóm lao động ở các khu vực kinh tế khác nhau. So với Philippines, một nước có cùng trình độ phát triển với VN nhưng có tới 14.000 tổ chức dân sự, thì vài trăm tổ chức xã hội của VN thể hiện sự lạc hậu trong tổ chức xã hội. Trong thời kỳ Đổi mới I, nhiệm vụ hình thành các tổ chức xã hội mới để đại diện cho các nhóm lợi ích mới, và những cơ chế hóa giải các chiều xung đột mới vẫn còn dang dở.
Hai là, trong những thời điểm bước ngoặt, với sự sáng suốt, Nhà nước có thể tạo điều kiện để xã hội hình thành những nguyên tắc mới, viễn kiến mới để đạt được sự đồng thuận xã hội cho mỗi thời kỳ phát triển. Nhìn vào lịch sử thế giới, ta thấy nhà nước, vốn quan tâm nhiều hơn tới việc điều hành thường nhật, ít khi tự tạo ra được những nguyên tắc dài hạn này. Nhiệm vụ đó được đặt lên vai của giới trí thức và nền học thuật (trong đó có hệ thống đại học) của mỗi dân tộc. Ở nước Nhật thời cải cách Minh Trị, các trí thức và học giả đã xác lập được nguyên tắc của đồng thuận cho hơn nửa thế kỷ sau: học phương Tây để quốc phú binh cường.
Trong Đổi mới I, sự phát triển của hệ thống đại học vẫn dựa trên bộ xương của hệ thống ĐH tập trung trước kia (trong đó mỗi ngành chỉ được đào tạo ở một vài trường ĐH chuyên ngành lớn chung cho cả nước, như ĐH Kinh tế quốc dân, ĐH Luật, ĐH Nông nghiệp...). Nó có xu hướng dạy nghề hơn là phát triển tri thức mới, làm cơ sở cho tư tưởng phát triển của dân tộc.
Hệ thống các viện nghiên cứu về cơ bản vẫn là của Nhà nước và vì Nhà nước, với những nghiên cứu phục vụ ngay cho việc ra chính sách. (Chẳng hạn, Viện Giá cả thị trường nghiên cứu về quản lý giá). Sự đóng góp của các trí thức và các viện nghiên cứu độc lập vào nghiên cứu xã hội và tư tưởng phát triển còn ít ỏi.
Hậu quả là nhiều biến đổi xã hội đã không được cả Nhà nước lẫn xã hội nhìn thấy trước. Khi không có nghiên cứu nào về tình trạng thất nghiệp của thanh niên đô thị, người ta sẽ còn bất lực trong dự báo và ngăn ngừa những bất ổn ở đô thị. Cũng vậy, bài học về xung đột do tình trạng di dân ồ ạt (vốn đã diễn ra ở rất nhiều nơi trên thế giới) đã không được nhắc đến trong chính sách di dân lên các vùng kinh tế mới.
Hai cuộc cải cách cho Đổi mới II?
Đổi mới I là sự can thiệp thành công của Nhà nước vào nền kinh tế. Đồng thuận của nhân dân về cải cách và mâu thuẫn về lợi ích trong xã hội còn yếu đã tạo điều kiện cho các cuộc cải cách thành công mà ít gặp trở lực. Những yếu tố thuận lợi này tất yếu sẽ giảm dần cùng với sự đa dạng hóa về lợi ích trong xã hội. Vì thế, nếu như đặt ưu tiên cải cách kinh tế lên trước cải cách xã hội vẫn được coi là sự đánh đổi sáng suốt của Đổi mới I, thì Đổi mới II chính là thời kỳ mở rộng phạm vi cải cách tới tổ chức xã hội, tạo dựng đồng thuận mới với cải cách.
Ngoài việc hoàn thành các cuộc cải cách bắt đầu từ Đổi mới I, Đổi mới II đòi hỏi hai cuộc cải cách mới:
Một là canh tân trong tư tưởng phát triển của dân tộc để tạo ra một viễn kiến mới, có khả năng nhận được đồng thuận rộng rãi từ các nhóm xã hội.
Hai là phát triển các tổ chức và thể chế xã hội mới để hiện thực hóa sự đồng thuận ấy.
Hai cuộc cải cách này vừa là yêu cầu tự thân của tiến trình cải cách nhằm giữ ổn định và tạo động năng đẩy cải cách lên phía trước, là sự chuẩn bị về mặt xã hội và về mặt tư tưởng cho cuộc cải cách hệ thống chính trị (có lẽ sẽ diễn ra ở Đổi mới III) mà Đảng đã định trước cách đây 20 năm.
Số liệu từ “Người dân ở làng ung thư Thạch Sơn sớm được nhận thẻ bảo hiểm”, trang mạng của Bộ Lao động - thương binh và xã hội.“Hàng trăm người dùng xăng tấn công công an”. Tin Tuổi Trẻ. Giải quyết tình trạng ứ đọng rác tại Hải Phòng. Báo Nhân Dân. Ngày 10-8-2004. Bộ Tài nguyên và môi trường đăng lại.“Vì sao các phóng viên bị dân Phú Thượng giữ”, VietNamNet ngày 21-10-2005.Xem A Modern History of Japan, Andrew Gordon, Oxford University Press, 2003.Báo cáo chính trị Đại hội VI tuyên bố: cải cách kinh tế, từng bước cải cách hệ thống chính trị.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận