![]() |
Ông Pêng trên con thuyền độc mộc của mình |
“Ơi Yang, ơi thần núi, thần sông hãy về đây phù hộ cho cây gỗ đổ xuống yên lành; cho con thuyền dù sóng to gió lớn vẫn bơi như con cá trên sông; cho chủ nó mạnh chân sáng óc, đi thả lưới lưới mắc nhiều cá, đi rẫy rẫy được nhiều lúa ơ Yang!” - Vừa gại lưỡi rìu sáng xanh ánh thép, ông Pêng vừa lẩm nhẩm lời khấn Yang đã nhập tâm trong ông.
Cứ mỗi con thuyền ông phải cúng hai lần cùng lời khấn ấy: lần thứ nhất là khi chọn được cây gỗ ưng ý và hạ nó xuống; lần thứ hai khi con thuyền đã hoàn thành và “hạ thủy” an toàn.
Lễ vật cho mỗi lần cúng đơn giản cũng phải con gà, ghè rượu. Chỉ với một chiếc rìu (được dùng vào mỗi việc đóng thuyền), dưới bàn tay khéo léo và cần mẫn của người thợ, chiếc thuyền độc mộc trên sông Pô Kô hình thành như một nét văn hóa không thể lẫn. Giữa sắc trời xanh ngắt của đại ngàn, trong tiếng réo sôi của miên man ghềnh thác, con thuyền vẫn lướt đi nhẹ nhàng như một cánh hoa ai thả trên sông.
Để có một con thuyền mảnh mai gan góc chấp thác ghềnh sóng dữ, người thợ phải có con mắt tinh tường và đôi tay khéo léo bẩm sinh. Gỗ dùng làm thuyền được chọn là cây sao xanh, có đường kính từ một người ôm trở lên; dài 5-6m, không chà ngạnh. Hạ cây xuống rồi, người ta tiến hành đẽo thuyền ngay tại rừng, vừa đẽo vừa đốt lửa hong.
Một con thuyền cỡ trung bình như thế, người thợ phải cần thời gian tối thiểu nửa tháng ở rừng. Khó nhất là phải làm sao cho con thuyền khi xuống nước nổi đều (không được phép sửa chữa khi đã hạ thủy). Để được như vậy người thợ làm thuyền ở đây có một cách khá... huyền bí: họ lật úp thuyền xuống, đặt một quả trứng gà theo chiều đứng vào chính giữa lưng thuyền. Nếu quả trứng không đổ thì chiếc thuyền khi xuống nước sẽ không nghiêng lệch.
Mỗi chiếc thuyền hạ thủy là một ngày hội đối với làng. Người có gà góp gà, người có rượu góp rượu cùng với gia chủ làm một bữa tiệc cộng đồng. Cùng với những lời chúc tụng, người thợ làm thuyền sẽ được gia chủ mời rượu trước tất cả mọi người như một phần thưởng và sự tôn vinh tài năng...
Đã vắng những con thuyền
Hơn bốn năm nay rồi không thấy ai đến nhờ ông Pêng đẽo thuyền nữa. Lớp thanh niên chưa thấy ai thế mà lớp già thì cứ rụng dần. Cả vùng bây giờ chỉ còn lại ông và người anh trai Rơmah Duyt nữa mà thôi...
Biết đẽo thuyền từ lúc còn thanh niên, ông Pêng không thể nhớ mình đã làm được bao nhiêu con thuyền. Xưa kia các làng dọc sông Pô Kô này ai cũng có thuyền. Con thuyền độc mộc gắn với mỗi bước chân lên rẫy, với mỗi niềm vui, nỗi buồn trên sông. Những năm chống Mỹ sáng lên hình ảnh con thuyền với người lái đò anh hùng A Sanh. Và không chỉ A Sanh, biết bao người dọc sông Pô Kô này đã hóa thân thành những A Sanh lặng lẽ. Chính ông Pêng cũng đã góp sức vào công việc này.
Khi bóng đêm vừa sẫm mặt sông, những con thuyền độc mộc từ mọi nẻo đã băng băng cưỡi sóng đón bộ đội. Đêm trắng và những con đò bí ẩn đã tạo cảm xúc cho nhiều bài thơ (Người lái đò trên sông Pô Kô của Mai Trang và Cẩm Phong; Chuyến đò đêm giáp ranh của Hữu Thỉnh...). Với thành tích 10 năm tham gia du kích và chèo thuyền chở bộ đội vượt sông, ông Pêng đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng nhì.
Rồi thì rừng càng ngày càng lùi xa, gỗ lớn làm thuyền cũng hiếm dần. Đặc biệt là sự xuất hiện của những chiếc xe máy đã khiến niềm vui sông nước nguội dần. Người ta đua nhau bán thuyền. Mỗi con thuyền còn sử dụng được trên chục năm chỉ có giá 500.000 - 1 triệu đồng tùy lớn nhỏ. Làng Nú của ông Pêng cách đây dăm năm nhiều thuyền là thế nay chỉ còn vỏn vẹn bốn nhà có thuyền độc mộc.
Vẫn biết là không thể khác mà ông Pêng vẫn thấy buồn...
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận