H.Y.Schandler viết: “Trận tấn công Tết năm 1968 là một trong những biến cố quan trọng của chiến tranh Việt Nam, là một đỉnh cao của hoạt động quân sự và có thể nói là trận đánh duy nhất người ta nhớ đời. Sự kiện ấy đã được nhiều người xem là một khúc quanh lịch sử làm Hoa Kỳ phải lao vào một đường lối hoạt động mới tại Việt Nam, đã đưa đến việc chấm dứt sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ, đã thay đổi triệt để khung cảnh chính trị nội bộ của nước Mỹ và mở màn cho việc rút quân khỏi Việt Nam. Nhưng quyết định đưa ra trong tháng 3-1968 dính líu đến không chỉ thuần túy chiến lược quân sự mà cả dư luận quần chúng và của Quốc hội, đến tính chất và kỹ thuật thu thập tin tức, đến tâm lý của cả nước, đến cá tính của các nhân vật trong nội bộ làm quyết định cả vòng trong vòng ngoài các giới cao cấp nhất trong chính quyền… Các quyết định trong tháng 3-1968 đã thật sự trở thành một giai đoạn đầy mâu thuẫn trong lịch sử hiện đại”.
Trong cuốn hồi ký của Tổng thống Lyndon B. Johnson Vị trí ưu thế (The Vantage Point) ông có cả một chương về Tết Mậu Thân đặc biệt đầy đủ và chi tiết. Trong tài liệu của Lầu Năm Góc cũng đề cập cuộc tấn công Tết. Nó còn có trong các cuốn Lịch sử Bộ tư lệnh (Command History 1968) và các văn khố của trung tâm quân sự quân đội Hoa Kỳ, trong tài liệu thư viện Tổng thống chưa được giải mật cho các nhà nghiên cứu vì còn phải chờ sắp xếp các thủ tục giải mật. Đó là chưa kể các luận văn trường đại học và sách báo khắp nơi trên thế giới.
Có một câu hỏi đặt ra là: Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân có thật sự bất ngờ với địch không? CIA có biết tin tức không? Câu hỏi này được đặt ra với ông Ẩn.
“Mỹ biết là sẽ có đánh nhưng không ngờ thời điểm chính xác. Nhưng họ đã đánh giá sai mục tiêu tấn công chính và mức độ. Họ cho là đánh thành phố chỉ là nghi binh, còn mặt trận chính là Khe Sanh. Chính Mác-vi (Macv) nhận định như vậy. Khi đó tôi có được tin từ các nhân vật cao cấp cho hay là Việt Cộng sẽ đánh vào thành phố, nhưng họ vẫn cho là đánh nghi binh cho Khe Sanh, cho nên dù có tin tức họ vẫn bất ngờ. Ngay khi xảy ra rồi, vẫn còn tưởng…”
Ông nhớ lại các phân tích quân sự, đã là các nghiên cứu của ông cách nay mấy chục năm: “Trước đó họ thấy ta pháo kích, tập trung quân ở Khe Sanh. Rạng mùng 1 Tết ta tấn công Miền Trung, Huế - Nha Trang, ở Khe Sanh cũng đánh mạnh. Đêm 30 rạng mùng 1: Miền Trung, đêm mùng 1 rạng mung 2 Miền Nam. Vậy là lúc xảy ra rồi, tôi điện thoại hỏi nguồn tin ở Macv thì ông ta vẫn nói Khe Sanh mới là chính”.
Các tài liệu khác sau này cho thấy thông tin này của ông Ẩn là chính xác. Người Mỹ cho rằng những điểm giống nhau về địa lý và quy luật hoạt động của đối phương khiến Khe Sanh giống Điện Biên Phủ. Điều này thu hút sự chú ý của cả dân chúng lẫn báo giới Hoa Kỳ. Thậm chí Tổng thống đã cho lập một sa bàn khu vực chiến trường ngay trong phòng tình hình của Nhà Trắng để nghiên cứu rất kỹ. Nhưng tướng Westmoreland vẫn tin chắc quân Cộng sản sẽ dồn lực lượng chính vào hai tỉnh phía Bắc của Vùng 1 chiến thuật. Quân đội cũng di chuyển theo nhận định đó: Lữ đoàn lính thủy đánh bộ Nam Hàn từ phía Nam đã chuyển ra vùng Đà Nẵng để thay thế cho lính thủy đánh bộ Mỹ để họ có thể chuyển về phía Bắc nếu có nhu cầu.
Sau này, trong hồi ký, Westmoreland cay đắng cho rằng các tin tức đã có, nhưng rất mập mờ. Thậm chí chính ông đánh giá trước Hội đồng phái bộ Mỹ rằngn khả năng 40-60% “địch” sẽ ngừng bắn và đánh sau Tết. Sau này nhìn lại, ông cho rằng một số nhà báo cũng đã đưa dự báo - Oberdorfer đã viết trên Washington Post và Miami Herald, nhưng, “Thế nhưng ai sẽ chịu nghe những lời đó?” Westmoreland viết như kêu lên trong hồi ký “Làm thế nào báo động cho mọi người biết khi mà báo chí, Quốc hội và Nhà Trắng đang lo chuyện Khe Sanh và tác động Miền Bắc chịu thương lượng do việc tạm ngừng ném bom”. Và mãi sau này trong các tác phẩm nghiên cứu, tác giả H.Y. Chandler viết: “Không mấy người Mỹ biết rõ rằng chiến công nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam là trận đánh hào hùng của Nguyễn Huệ (Quang Trung) bất thần tấn công vào quân Thanh chiếm đóng Thăng Long Tết năm 1789”.
Những bất ngờ còn ẩn chứa trong các sinh hoạt đặc biệt của dân tộc này. Chính Westmoreland miêu tả trong hồi ký của mình về Tết của Việt Nam: “Người Mỹ không có cái lễ nào giống dù là giống một cách xa xôi với cái Tết Việt Nam bắt đầu từ ngày đầu năm âm lịch. Dù so sánh nó với lễ Noel, lễ Tạ ơn và ngày 4-7 cũng không đủ để nói lên tầm quan trọng mà người Việt Nam gắn bó cái Tết của họ. Trước Tết hàng mấy tuần lễ, các bà nội trợ Việt Nam đã gói bánh chưng bằng nếp dẻo bên trong những chiếc lá dong mùi rất thơm. Người ta bày bán chè, bánh kẹo, rượu, nếp, mua sắm quần áo mới, trang hoàng nhà ở bằng các thứ hoa. Người thân chuẩn bị về quê làm lễ cúng ông bà, tổ tiên. Trẻ em mường tượng sẽ được mừng tuổi bằng kẹo bánh và giấy bạc 5 đồng. Không có gì, thậm chí cả một cuộc chiến tranh để sống còn, lại có thể cản được lễ Tết”. Chính ông Westmoreland lo ngại: trong số người đi lại như nước ấy, Việt Cộng trà trộn làm sao biết được. Các tài liệu sau này cho biết: ít ra tới nửa quân số của Quân đội Cộng hòa bỏ về quê ăn Tết và chính Tổng thống Miền Nam Nguyễn Văn Thiệu cũng về quê vợ ăn tết ở Mỹ Tho.
Nói lại chuyện chiến sự với người Anh hùng tình báo Phạm Xuân Ẩn hôm nay, ông vẫn nhớ lại các chi tiết buồn cười: “Phải rồi. Dân vẫn đi. Ngay lúc bắt đầu tấn công, dân vẫn đốt pháo. Pháo đốt cả đêm. Súng với pháo nhập nhằng với nhau. Quân đội bị cấm trại 100% nên mới có bài hát “100% em ơi” không đi với đào được”.
Lúc đó ông làm gì?
“Ngay từ hồi năm 1966 quân Mỹ ồ ạt qua, tôi cũng có ý nghĩ nên phản công. Vào trong mật khu họp hành, tôi cũng có nói ý này. Nhưng lúc đó lãnh đạo nói nên coi cách nó sao đã, nghĩa là phải nắm chắc đường lối của địch. Trước khi tiến hành chiến dịch, tôi cũng được biết trước 3 tháng để chuẩn bị nghiên cứu các mặt chiến lược. Công việc của tình báo chiến lược là vậy: nghiên cứu các mặt quân sự - chính trị - xã hội - kinh tế, xem các yếu tố này và sự phòng thủ của địch thế nào. Vì khá gần gũi và am hiểu phía địch, biết đánh vô thời điểm nào là tốt. Tôi cũng ủng hộ phương án đánh vào dịp Tết, bất ngờ”. Lãnh đạo, đã lệnh cho ông thời gian đó phải ở Sài Gòn nắm tin tức, không được đi đâu xa vắng mặt.
Ông phải có hoạt động cụ thể, hay lúc đó vẫn phải nằm im để khỏi bị lộ? “Tôi phải sống bình thường với công việc nhà báo. Lúc đó tôi làm một lúc cho hai tờ, phải viết tin tức chiến sự, máy chạy liền liền”. Có lẽ đời làm báo với tin tức nóng bỏng và tiếp xúc trực tiếp với các đầu nguồn tin, ông đã được ở một thế quan sát tổng quát cả chiến dịch. “Tôi thường kêu điện thoại sang các nguồn tin quen thuộc ở phòng Hành quân, Tổng tham mưu, Nha Cảnh sát. Đánh đâu, biết liền”.
Trong lúc quân ta tiến đánh thành phố, Chợ Cũ đóng cửa do lệnh giới nghiêm, ông Ẩn cùng với các quan chức ngụy rủ bạn bè đi vòng vòng. Đại tá Nguyễn Bé mời ông đi ăn cơm cùng với Vượng người bạn thân và một cố vấn Mỹ đeo hàm trung tá, nói tiếng Việt giọng Huế. Họ quan sát tình hình, thảo luận thời cuộc và kéo nhau đi ăn. Họ phải gọi cửa, chủ tiệm mới mở cho vào. Vừa ăn, vừa nghe đài, theo sát chiến sự, đánh đến đâu, quân ta vào đến Hàng Xanh, đánh đến Bộ Tổng tham mưu… Khi quân ta tiến công đợt 2, ông cũng ngồi với viên đại tá Thanh Tùng, một trong những sĩ quan chỉ huy chiến dịch phía quân ngụy, theo dõi và viết tin tức theo từng bước tiến quân, làm chiến lược, tổng hợp và báo cáo ra cho chiến khu tình hình địch phản kích như thế nào. Với tư cách nhà báo chuyên về tin tức chiến sự, ông đã được chứng kiến, theo dõi nhịp độ của các trận đánh.
Ông kể lại: “Quân ta vô ban đêm. Một tổ đề kháng của địch gần Dinh Độc Lập, chỗ Thủ Khoa Huân - Nguyễn Du bây giờ, thành ra quân ta bị kẹt ở đó. Có một tiểu đội ngầm ở phía dưới Gia Định, máy bay nó bắn xả xuống. Anh em gan dạ, chết thôi chứ không lên hàng. Tin tức về nhóm anh Tư Hùng đánh Tòa Đại sứ rất dũng cảm. Họ leo qua phía sau Tòa Đại sứ để vào bên trong, gặp phải một tay súng giỏi của nó nằm phục. Ta súng AK phải nhô lên. Nó nằm, phục bắn anh em. Đó là tên đại tá, đại tá George Jacobson có vợ Việt Nam, ở phía sau Tòa Đại sứ. Chúng điều động tụi bảo vệ bên trong. Anh em hy sinh hết, chỉ còn một chiến sĩ ta bị thương, bị bắt, rồi được trao trả nhưng sau này anh bị tai nạn giao thông chết. Tụi nhà báo Mỹ sang đây kiếm anh hoài không được”.
Ông cũng kể về các nhân vật chỉ huy của quân ta rất dũng cảm như ông Tư Cang, cụm trưởng tình báo chiến lược và sau đó là chính ủy Sư 316, hoặc ông Bảy Vĩnh cũng là một chỉ huy giỏi của quân ta. “Ông Tư Cang cụm trưởng tình báo chiến lược và sau đó là Tham mưu trưởng Sư 316, biết rất nhiều chi tiết của chiến dịch. Đợt 2 cũng ông. Mãi đợt 3 sợ lộ, trên mới rút ông ra”. Ông Ẩn cũng còn chứng kiến cảnh thẩm vấn kẻ đầu hàng.
Từ trước khi chiến dịch xảy ra, ông có nhiệm vụ đưa một người quân báo của ta vào nội thành để quan sát mọi mặt. Dưới vẻ ngoài, họ là bà con, bè bạn, đi xem phim, đi chơi các phố xá.
“Tôi dẫn vào xem các hãng phim Mỹ cho coi các cuộc hành quân của Mỹ, để ông biết đại đội nó đi sao, cỡ tiểu đoàn nó đi sao. Nhờ chỗ tôi thân quen nên coi được những phim tư liệu đó. Chúng tôi tìm hiểu được cả kế hoạch bảo vệ thành phố, tâm lý dân chúng, các mặt binh vận, dân vận. Đó là việc của ông. Tôi thì phải sống bình thường, vẫn đi làm việc. Chỉ có khác là đêm xuống, công việc vãn, tôi quan sát các chuyển động của địch như xe cộ nó chạy, chuyển quân. Tôi thường lái chiếc xe quen thuộc của tôi, trên có con bécgiê, đi vòng vòng quan sát thành phố”. Ông đã dẫn cả người quân báo “đi xem” Sở Thú. Họ coi dò máy, lái phía sau nổ điếc tai. Đi hóng mát chơi bằng đò nhỏ như vậy ông mới có thể chỉ cho người quân báo thuộc trong lòng một cái “bản đồ”. Chỉ huy nó nằm ở đâu. Quân ta sẽ vô hướng nào. Bảo vệ của nó có mấy lớp, cái nào tại chỗ, cái nào di động. Đi đường thế nào…
Ông cũng không quên những chi tiết vui của cuộc đi quan sát ấy. Người quân báo ở vùng giải phóng ra, cứ yên trí là khi nào tấn công vào thành phố, sẽ phải lấy tiền ra cho cách mạng. Ông chăm bẵm nghiên cứu kho bạc. Ông Ẩn kêu lên: “Ở đó kho bạc nhưng không có nhiều tiền đâu. Trời ơi ở đó nó chỉ phát lương thôi. Tiền nó lấy ở Ngân hàng Quốc gia. Tôi dẫn ông vô chỗ mấy đàn em của tôi ở kho bạc, giải thích cho ông tiền bạc chi sao… Mà muốn lấy tiền làm quỹ cho cách mạng, sao không nghĩ tới tòa án. Ở đó mới lắm tiền, lắm vòng vàng, vật chứng của những vụ ăn cướp, buôn lậu đang chờ xét xử”.
Người quân báo còn được anh bạn Ẩn dặn là khi tấn công vào kho bạc hoặc ngân hàng, nhớ đem theo mỏ hàn. “Nhưng đó là việc của ổng. Làm những việc đó không phải nhiệm vụ tôi”. Ông Ẩn kết thúc những chi tiết hiếm hoi của cuộc chuẩn bị cho chiến dịch. Phần việc của ông là thu thập và phân tích chiến lược.
(còn tiếp)
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận