![]() |
Bobby Muller (trái) đang trò chuyện với TNS John Kerry |
Vừa tới Hà Nội buổi sáng 23-2 và mặc mọi người e ngại cho sức khỏe của một “ông già tàn tật”, Bobby Muller - chủ tịch Quĩ cựu chiến binh Mỹ tại VN (VVAF) - yêu cầu được tới trò chuyện với sinh viên VN ngay buổi chiều cùng ngày. Trong vòng hơn một giờ đồng hồ, ông trò chuyện không chút mệt mỏi và hào hứng đón nhận từng câu hỏi của sinh viên như thể đang tâm sự với những người bạn đồng môn.
|
Tôi đã bay tới London xin gặp đại sứ VN tại Anh (vì lúc đó hai nước Việt - Mỹ chưa có đại diện ngoại giao), trình bày nguyện vọng được trở lại VN. Ít lâu sau phái đoàn VN tại Liên Hiệp Quốc thông báo cho tôi: xin chúc chuyến thăm Hà Nội của ông thành công tốt đẹp”.
Tháng 12-1981, Bobby Muller dẫn đầu đoàn cựu chiến binh Mỹ bốn người trở lại VN. Họ trở thành những người cựu chiến binh Mỹ đầu tiên được thăm miền Bắc VN kể từ khi chiến tranh chấm dứt. Chuyến thăm lịch sử này đã làm tốn bao nhiêu giấy mực của báo chí Mỹ thời đó. Và nó in hằn trong tâm trí của Bobby Muller, sâu đậm tới mức ông luôn kể về nó như thể mới chỉ xảy ra ngày hôm qua.
“Tôi được tiếp kiến bộ trưởng ngoại giao của VN lúc đó là ông Nguyễn Cơ Thạch. Tôi trình bày với ông những mối quan tâm của chúng tôi về vấn đề lính Mỹ mất tích trong chiến tranh (MIA), về vấn đề hậu quả của chất độc hóa học.
Bằng vẻ thâm trầm, ngoại trưởng ghi nhận những ý kiến của chúng tôi và yêu cầu tổ chức một cuộc họp chung vào 8 giờ tối. Phía VN gồm sáu đại diện của Bộ Ngoại giao, chúng tôi có mặt đầy đủ cả bốn người. Khi chúng tôi nói về những hậu quả nặng nề của cuộc chiến mà các cựu binh Mỹ đang trải qua ở bên kia bờ Thái Bình Dương, những đại biểu VN lắng nghe trong im lặng. Rồi bỗng nhiên cả sáu đồng loạt đứng dậy, cởi bỏ những chiếc áo khoác của mình. Họ chỉ cho chúng tôi những vết tích, những vết thương mà họ đang mang từ cuộc chiến tranh. Tất cả chúng tôi sững sờ. Và rồi không ai bảo ai, cả mười người chúng tôi ôm nhau khóc. Chúng tôi nhận ra rằng hai bên đã tìm được sự đồng cảm. Chúng tôi ngầm hiểu với nhau sẽ làm nhiều điều hơn cho một tương lai tốt đẹp của cả hai phía”.
Kể từ đó, theo lời Bobby Muller, VVAF hoạt động như “đại sứ quán VN tại Washington”, là nơi truyền tải những yêu cầu, những vấn đề về các hậu quả của cuộc chiến tranh VN lên quốc hội và chính giới Mỹ. Ông hướng VVAF vào các hoạt động nhằm trợ giúp nạn nhân chiến tranh ở VN như hỗ trợ người bị thương tật do chiến tranh, đánh giá tác động bom mìn còn sót lại ở VN và các chương trình hỗ trợ nạn nhân của chất độc màu da cam...
![]() |
Với Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch năm 1981 |
Trong cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ của mình, Muller luôn được tiếp sức bởi sự đồng cảm sâu sắc từ những người bạn VN. “Trước khi trở lại VN năm 1981, chúng tôi vô cùng lo lắng, nghĩ rằng sẽ gặp những người biểu tình tại cổng khách sạn hoặc chí ít cũng phải chứng kiến sự giận dữ của những người đã chịu nhiều đau thương trong cuộc chiến tranh. Khi đi ra đường, chúng tôi thường nhận được câu hỏi “các ông từ đâu đến?”.
Sau câu trả lời “chúng tôi là người Mỹ”, chúng tôi rất hồi hộp không biết phản ứng của mọi người ra sao. Nhưng câu trả lời làm chúng tôi quá đỗi ngạc nhiên và xúc động: “Oh, welcome to Ha Noi” (Ồ, vậy sao, chào mừng các ông tới Hà Nội).
Vâng, họ đã nói với chúng tôi như vậy. Tôi hiểu rằng những người VN, dân tộc VN có một lòng vị tha lớn lao và chính sự vị tha của các bạn đã đóng góp phần vô cùng quan trọng vào tiến trình hàn gắn giữa hai nước chúng ta”- Muller kết thúc bài phát biểu trong tràng pháo tay vang dội của các bạn sinh viên VN.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận