![]() |
Xe tăng Israel vào Libăng |
Syria cũng có tham vọng về một “đại Syria” bao gồm Libăng, Israel, lãnh thổ Palestine và một phần Jordan...
Chiến tranh Trung Đông lần thứ nhất năm 1948
Điều đó giải thích những đóng góp sốt sắng của Syria trong phong trào chống “bành trướng Israel” của các nước Ả Rập từ 1948 đến nay. Trong cuộc chiến tranh đầu tiên năm 1948 với mục tiêu “hủy diệt Nhà nước Do Thái vừa ra đời, kể cả chiếm đóng toàn thể khu vực bằng sức mạnh”, Syria góp khá nhiều xương máu: hơn 300 binh sĩ thiệt mạng chỉ trong trận đánh ở ngôi làng Samakh và các “làng chiến đấu” (kibbutz) Degania A và B của người Do Thái ở nam biển hồ Tiberia.
Syria đã đặt được một chân ở đông bắc Palestine cùng ba “ốc đảo” ở phía bắc, miền trung và phía nam Palestine (biên giới năm 1923). Sau hiệp định đình chiến Syria - Palestine 1949, nơi đây trở thành khu vực phi quân sự và là nơi tranh chấp giữa hai bên ngay cả đến ngày nay.
Chiến tranh sáu ngày 1967
- Từ 1949, Palestine đang mất dần lãnh thổ của mình. Trước Thế chiến thứ nhất, Palestine, trên trục bắc - nam, còn chạy dài từ Raphia (đông nam Gaza) đến sông Litani (nay thuộc Libăng), về phía tây còn ra đến biển, về phía đông còn đến sông Jordan. Sau khi được giao cho Anh “bảo hộ”, biên giới Palestine còn khá lớn, như có thể thấy trên bản đồ năm 1923 trên đây. So sánh Palestine ngày nay, chỉ còn dải Gaza và Bờ Tây sông Jordan, với bản đồ Syria và Israel ngày nay, sẽ thấy Palestine của năm 1923 bị mất bao nhiêu đất và bởi “những ai”. |
Tháng 5-1967, Syria tố cáo Israel tập trung quân đội ở bên kia biên giới. Israel bác bỏ cáo buộc này và mời đại sứ Liên Xô tại Israel đến biên giới kiểm tra song ông này từ chối. Tổng thống Nasser của Ai Cập ra lệnh tổng động viên, gửi quân đến bán đảo Sinai, nơi đang có một lực lượng LHQ trú đóng từ sau năm 1956.
Ông ra lệnh cho lực lượng LHQ rút gọn vào ba địa điểm trong bán đảo Sinai, song Tổng thư ký LHQ Uthant lúc đó bác bỏ yêu cầu này. Ngày 19-5, LHQ rút quân. Binh sĩ Palestine tiến vào chiếm các vị trí quân LHQ vừa bỏ trống. Ngày 22-5, Ai Cập khóa chặt vịnh Akaba, cấm không cho tàu bè Israel bén mảng đến gần kênh đào Suez.
Syria và Jordan cũng di chuyển quân đội đến gần biên giới. Ngày 30-5, quốc vương Hussein của Jordan bay sang Cairo ký hiệp định đặt quân đội Jordan dưới quyền chỉ huy của Ai Cập. Ngay ngày hôm sau, một đơn vị tinh nhuệ Ai Cập bay đến Jordan. Iraq cũng động binh. Ngày 4-6, nội các Israel quyết định chiến tranh (nguồn: L'Arche, no. 474/juin 1997).
Chỉ trong sáu ngày chiến tranh kết thúc. Ai Cập mất bán đảo Sinai, Syria mất cao nguyên Golan, người Palestine bị đuổi ra khỏi Gaza và Bờ Tây sông Jordan. Từ đó, những vùng đất này được gọi là “lãnh thổ bị chiếm đóng” và Israel được mô tả là “chủ nghĩa bành trướng Siôn”...
Chiến tranh Kippour 1973
Vẫn còn hậm hực vì thất trận năm 1967, phần muốn giành lại lãnh thổ bị mất, các nước Ả Rập lại chuẩn bị chiến tranh. Hai giờ chiều thứ bảy 6-10-1973, ba sư đoàn bộ binh cùng 1.000 xe tăng Syria ào lên cao nguyên Golan. Máy bay Mig của Syria ồ ạt xuất hiện oanh kích đội hình xe tăng Israel lúc đó đang tập trung trong thung lũng Jordan.
Năm sư đoàn quân Ai Cập cũng lập 10 đầu cầu, tiến qua kênh đào Suez tràn ngập bán đảo Sinai (bị Israel chiếm đóng từ năm 1967) với sự yểm trợ của 1.500 xe tăng và 222 máy bay chiến đấu. Lúc đó, ở Israel đang ăn lễ Kippour (lễ sám hối). Quân Ai Cập chiếm được một hành lang dọc kênh Suez sâu đến 16km. Tinh thần quân Ai Cập cao ngất. Quân Ai Cập cố tiến về phía đông, quân Israel cố ngăn cản. Tướng tình báo Aaron Yariv của Israel cảnh báo: “Cuộc chiến sẽ kéo dài và khó khăn”.
Sau này có thêm những chi tiết mới cho biết: Israel hoàn toàn đánh giá sai tình hình: một tuần trước khi chiến sự nổ ra, Ai Cập tổ chức tập trận. Tình báo Israel tin chắc như thế. Ngay tướng “độc nhãn” Moshe Dayan, người hùng của chiến tranh năm 1967, còn không tin rằng Ai Cập sẽ tấn công. Tình báo Israel cũng không dò la ra được rằng ngay cả Iraq xa xôi cũng đưa được 30.000 binh sĩ, 500 xe tăng và 700 xe bọc thép đến cao nguyên Golan (“The Yom Kippur war: the epic encounter that transformed the Middle East”, Abraham Rabinovich).
Thế nhưng, trận chiến thiết giáp ở Koms, mà phần thắng thuộc về phía Israel, đã làm xoay chuyển tình thế. Quân Syria bị đẩy lùi. Trong khi đó, tướng Ariel Sharon cũng đẩy lùi quân Ai Cập về đến kênh đào Suez. Túng thế, ngày 17-10 các nước Ả Rập ngưng cung cấp dầu cho những nước hậu thuẫn Israel. Đây là lần đầu tiên vũ khí dầu hỏa được sử dụng. Ngày 24-10, Syria ngừng bắn. Ngày 25-10, quân đoàn 3 của Ai Cập bị bao vây bên bờ kênh Suez và phải chấp nhận ngừng bắn. Ngày 26-10, các căn cứ Mỹ báo động: Liên Xô dọa sẽ gửi quân đến Trung Đông. Song điều này đã không xảy ra (theo QUID).
Khác biệt giữa cuộc chiến Kippour năm 1973 và cuộc chiến tranh sáu ngày năm 1967 ở chỗ lần này quân đội các nước Ả Rập tuy cuối cùng vẫn thua song đã chiến đấu ngoan cường hơn. Sau thất bại năm 1967, 100.000 sinh viên Ai Cập đã nhập ngũ và họ đã tạo thành hạt nhân nòng cốt của quân đội Ai Cập đang trên đà hiện đại hóa. “Chính họ điều khiển các dàn SAM, xe tăng và đại pháo do Liên Xô cung cấp. “Chính vì sự thay đổi cơ bản này của quân đội Ai Cập mà cuộc chiến đã trở nên khó khăn hẳn cho Israel” (tuần báo L'Express 15-10-1973).
Khác với năm 1967, lần này vũ khí Mỹ thay cho vũ khí Pháp, chiến đấu cơ F-4, Skyhawk của Mỹ bổ sung cho Mirage III của Pháp... Súng chống tăng M-72 của Mỹ được sử dụng đại trà để chống xe tăng T-62 mới nhất của Liên Xô. Cuộc chiến tranh Trung Đông 1973 mang đậm sắc thái của một cuộc chiến tranh “từ xa” giữa Mỹ và Liên Xô.
Chiến tranh Libăng 1982
Sáu năm sau cuộc chiến Kippour, Ai Cập và Israel ký hiệp định hòa bình Camp David vào tháng 2-1979. Israel rút khỏi bán đảo Sinai của Ai Cập. Tháng hai năm sau, hai bên trao đổi đại sứ. Sự thay đổi thái độ của Ai Cập không được các nước Ả Rập còn lại hoan nghênh. Tổng thống Ai Cập Sadate mất mạng vì dám “hòa bình với Israel”.
Lúc này, Syria giương cao ngọn cờ chống Israel. Ngày 20-7-1981, từ Libăng, Mặt trận Giải phóng Palestine (PLO) bắt đầu pháo kích ào ạt vào Israel, Israel không kích vào Libăng để trả đũa. Tình hình y như hiện nay. Qua năm sau mở chiến dịch “Hòa bình cho Galilê”. Syria nhảy vào giao chiến. Cả hai bên cùng ở lì tại Libăng: Israel đến tháng 5-2000, Syria đến tháng 5-2005.
Tình hình 2006
Nếu như trước kia các nước Ả Rập một lòng chống Israel thì từ 1979 đến nay, khối này đã lần hồi phân hóa. Sau Ai Cập, Saudi Arabia rồi đến lượt Jordan giảng hòa với Israel và trở thành đồng minh của Mỹ. Ngay trong nội bộ người Palestine, phong trào Fatah và PLO của ông Arafat cũng đã chung sống
hòa bình với Israel. Thay cho phong trào Fatah ngày nào của ông Arafat từ Libăng pháo kích và tấn công vào Israel, nay là Tổ chức Hezbollah và Tổ chức Hamas từ Gaza. Thay cho Ai Cập là Iran trong vai trò “anh cả”. Riêng Syria vẫn trong vai trò cố hữu “chống Israel vì Palestine”.
Chống Israel kịch liệt, nhưng do kinh nghiệm chiến bại, Syria vẫn luôn e dè tránh đụng độ trực tiếp với Israel mà chỉ mượn tay phe Hezbollah để tiêu hao sinh lực Israel. Syria hi vọng một khi Israel tàn phá Libăng để trả đũa Hezbollah, vô hình trung sẽ đẩy người dân Libăng về phía Syria và phe Hezbollah, lật lại tình thế năm ngoái Syria bị dân Libăng oán trách sau vụ ám sát cựu thủ tướng Hariri và Syria buộc phải rút quân khỏi Libăng. Chính nhật báo Daily Star của Libăng (15-7-2006) đã dè chừng: “Israel khi lặp lại sai lầm năm 1982 xâm lược Libăng, sẽ phạm sai lầm chiến lược là đưa Hezbollah lên vị trí hàng đầu”.
Israel cũng có vẻ đã rút kinh nghiệm các cuộc chiến tranh trước nên lần này, trước một Iran hùng hậu, Israel cũng phải cân nhắc. Nhật báo Haaretz của Israel (28-6-2006) phân tích: “Hoa Kỳ đã là người bạn tốt nhất của Iran khi loại bỏ các kẻ thù của Iran là Taliban và Saddam Hussein. Hoa Kỳ còn đã tự giảm mối đe dọa đến Iran do đã đổ quá nhiều máu và tài sản ở Iraq”. Trong khi đó, Iran đang đôi co với Âu - Mỹ về vấn đề hạt nhân và Âu - Mỹ đang bó tay. Chính vì thế Israel cần cảnh báo đừng để rơi một lúc vào ba mặt trận Hamas, Hezbollah và Syria cùng Iran.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận