![]() |
Một vài gương mặt thơ trẻ hôm nay: Phan Huyền Thư, Tú Trinh, Trần Lê Sơn Ý |
Đoàn Vị Thượng (biên tập viên tạp chí Tài hoa trẻ), Lê Minh Quốc (trưởng ban Văn nghệ báo Phụ nữ thành phố), Phạm Sỹ Sáu (trưởng ban khai thác đề tài và giao dịch tác quyền, NXB Trẻ, Ban công tác sáng tác trẻ Hội Nhà văn VN), Nguyễn Thái Dương (Thư ký tòa soạn báo Mực tím, phụ trách trang thơ Bút mới báo Tuổi trẻ) về thế hệ nhà thơ kế tiếp sau họ: tiếng vang và thực chất, mà ở các vị trí đương quyền, họ đã có điều kiện tiếp cận với thế hệ thơ này.
* Một câu hỏi chung: Thuộc về thế hệ những nhà thơ thành danh sau 1975 tại TP.HCM, xin các anh cho biết: Liệu đã thật sự có một thế hệ nhà thơ khác, hiện đại hơn sau các anh có mặt ở thành phố này? Họ đã kế thừa gì ở thế hệ các anh, cũng như đã từ chối điều gì? Bởi thế đâu là cái mới của họ?
- Đoàn Vị Thượng:
Các cây bút “hậu đổi mới” ít có tham vọng trở thành nhà thơ chuyên nghiệp
Nếu chữ khác, hiện đại hơn hiểu trên bình diện rộng thì tôi khẳng định “có”. Nó cũng giống thế hệ nhà thơ thời chống Mỹ khác, hiện đại hơn thế hệ chống Pháp, và thế hệ sau 1975 cũng khác, hiện đại hơn thế hệ thời chống Mỹ. Đó gần như là quy luật bình thường. Thế thôi.
Còn nếu nói khác, hiện đại hơn trên bình diện hẹp, cụ thể thì... khó nói, vì đúng là thế hệ nhà thơ - mà tôi tạm gọi là “hậu đổi mới” - tuy biểu hiện rõ sự tự do hơn, trong cả nội dung đề tài lẫn thể loại, phong cách, nhưng hầu như “mỗi người một vẻ”, rời rạc, lẻ loi, lẻ tẻ chứ chưa tập trung thành một lực lượng đại diện cho một phong cách, một “trường phái” hay ít nhất, một nhóm có quan điểm thống nhất rõ rệt trong sáng tác, sáng tạo. Và cũng chưa thấy một hai tác giả, hoặc một số bài thơ, tập thơ nào “đóng đinh” được một cách thuyết phục cái giá trị khác, hiện đại đó vào mình.
Nhưng tôi xin nói thêm: Có vẻ như hầu hết các cây bút “hậu đổi mới” rất ít có tham vọng trở thành nhà thơ chuyên nghiệp, hoặc ít ra như một tác giả có một tài-sản-thơ nhất định. Họ chỉ làm thơ tùy hứng như một cách giải phóng năng lượng cá nhân, (cũng có thể gọi là một thú tiêu khiển) để tìm kiếm, mong muốn biểu hiện sự bình đẳng của cá nhân mình, thế hệ mình với đồng loại cùng trang lứa trên khắp thế giới.
- Lê Minh Quốc:
Dũng cảm thôi chưa đủ, vấn đề cốt lõi vẫn là tài năng
Tôi thường không thích sự phân chia các thế hệ làm thơ. Một bài thơ hay, dù viết cách đây ngàn năm cũng có giá trị như bài thơ hay viết trong năm 2005. Với tôi, Nguyễn Du vẫn trẻ, trẻ đến độ ta tưởng chừng thiên tài này vẫn tồn tại cùng với thế hệ chúng ta. Trong khi đó, có những nhà thơ sống trong thế kỷ này, nhưng ta lại cảm tưởng như họ đã chìm khuất trong vệt bụi mờ của thời gian, dù hàng ngày vẫn có thơ.
Thế nào là hiện đại? Câu ca dao đi vào trong trí nhớ của nhân loại Thương em, anh khóc đã mòn con ngươi là hiện đại đấy chứ! Nó hiện đại đến mức tưởng chừng như khó có thể tìm cách nói nào khác ấn tượng hơn thế nữa. Đây chỉ là một trong rất nhiều ví dụ. Tính hiện đại của thơ không nằm trong hình thức biểu hiện. Nó nằm ở tư tưởng. Tôi rất sợ những câu thơ biểu đạt tiếng Việt một cách ngọng ngịu, ngô nghê. Nói như ông Trần Mạnh Hảo đó là “phong cách” của những người “tự dịch thơ mình ra tiếng Việt” vậy.
Gần đây có những anh em trẻ thể nghiệm, tìm tòi cách diễn đạt mới trong thơ. Tôi ủng hộ thái độ này, ủng hộ thái độ dũng cảm dám sống tận cùng với thơ. Nhưng thơ có cho họ sống chung hay không lại là chuyện khác.
Ở bất cứ thời điểm nào cũng có những người trẻ tuổi gan dạ trên chiếc đu bay cả. Nhưng chỉ có thái độ thôi vẫn không đủ, vấn đề cốt lõi vẫn là tài năng.
Thật ra, không phải khi trẻ người ta mới thể nghiệm, mà đến lúc bạc đầu các nhà thơ đích thực vẫn đau đáu muốn khám phá đến tận cùng bí ẩn của thơ. Ở nhà thơ lớn Chế Lan Viên là một thí dụ điển hình qua tập Di cảo thơ, khiến ta kinh ngạc và cảm nhận ở ông một sự tươi trẻ đến lạ lùng, hiện đại đến lạ lùng.
Trong cuộc chơi này, nếu một khi nhịp điệu của tâm hồn anh còn giông tố, còn bất an, còn tan nát bởi, chẳng hạn của ngọn gió của thời cuộc, của ngọn roi của tình ái... thì may ra còn có thơ, nếu bình lặng quá, yên bình quá, “công chức” quá thì thơ cũng bỏ ta đi thôi. Đi tìm cái mới trong thơ ư? Nhà thơ, anh hãy hỏi tâm hồn của chính anh.
- Phạm Sỹ Sáu:
Nhạc điệu trong thơ trẻ hôm nay đang bị mất dần
Theo tôi, thật sự đã có một thế hệ nhà thơ mới xuất hiện trên văn đàn từ trong khoảng 10 năm trở lại đây. Sự xuất hiện này có tính đồng loạt và khá tập trung, nhưng lại không nhất quán bởi điều kiện khách quan sau: Các phương tiện thông tin đại chúng phát triển đã làm cho lực lượng thơ trẻ có cảm giác như bị phát tán. Nó hoàn toàn khác với thế hệ sau 1975, vì khi ấy thế hệ này chỉ góp mặt tập trung ở một số tờ báo.
Bởi thế, sự đa phong cách cũng xuất hiện. Có người như một thể nghiệm. Có người đã chủ định được con đường của mình. Với tôi, tôi chấp nhận tất cả. Anh muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm, nhưng thơ vẫn phải là một tiếng lòng. Tôi nghĩ độc giả cũng thế, họ vẫn muốn tìm trong sáng tạo những bài thơ thật, không phải làm dáng, mà để giãi bày, tâm sự.
Tôi cho rằng các bạn trẻ không hề chối từ quá khứ mà vẫn kế thừa trên cái nền văn học cũ. Cái khác, nếu có chỉ là họ đã phả vào ngôn ngữ thơ cái hơi thở hiện đại, chữ nghĩa hiện đại của đời sống đương đại cung cấp. Tôi nghĩ không có gì mới kể cả với nhóm Mở Miệng. Vấn đề chỉ là họ đang mang cái tâm thái của thế hệ mình.
Tôi tiếc một điều là nhạc điệu trong thơ trẻ hôm nay đang bị mất dần. Đó là một nguy cơ, một nỗi lo. Theo tôi, dù thế nào, thơ vẫn phải có nhạc điệu. Điều này, tôi không nghĩ là họ đã có một hệ thẩm mỹ khác, nó chỉ rổn rảng hơn, “hip-hop” hơn mà thôi.
- Nguyễn Thái Dương:
Một thế hệ thơ tài hoa, thông minh, nhạy cảm
Việc định hình thế hệ thơ sau 1975, nói một cách công bằng, ngoài tài năng thi sĩ của mỗi cá nhân, còn có sự “trợ giúp” khách quan của thời điểm. Cái mốc lịch sử “sau 1975” góp phần đáng kể về hình thức, làm tôn vinh thêm nội lực vốn có của thế hệ Nguyễn Nhật Ánh, Đỗ Trung Quân, Lê Thị Kim, Phạm Sỹ Sáu, Đoàn Vị Thượng, Trần Hữu Dũng, Hồ Thi Ca, Thanh Nguyên, Bùi Chí Vinh, Lê Minh Quốc, Trương Nam Hương…
Thế hệ sau đó có vẻ như chưa rõ nét lắm vì sự định hình bằng chính bản thân tác phẩm đòi hỏi khó hơn so với trước. Trẻ hơn, sung sức hơn, tài năng hơn là khác, thế hệ sau - cái thế hệ chưa thật định danh trong lòng người đọc cho lắm - đã biểu lộ được nét tài hoa trong sự khám phá, lùng sục, đào khoét, ngay cả… “soi mói” một cách đáng yêu vào mọi ngóc ngách hình thức và nội dung của đời-sống-thơ. Họ đã có được sự “ngăn sông cách núi” trên “đường đi khó” của thi ca là tìm kiếm, mày mò trong khi thế hệ trước có vẻ như bằng phẳng hơn trên lộ trình thơ nhờ vốn liếng thực tế của đời sống sau 1975 đã kích thích thúc giục niềm thi ca ở họ.
Tự nguyện đến với thơ, thế hệ trước đã có mặt ở tất cả các môi trường: Bộ đội, Thanh niên xung phong, vùng sâu vùng xa… để khơi nguồn cảm xúc. Thế hệ sau không có được cái “điều kiện” tự nhiên ấy, nhưng họ đã phần nào “qua mặt” được đàn anh nhờ sự tài hoa, thông minh, nhạy cảm trong quá trình tự thể hiện. Tôi tự hào với Nguyễn Danh Lam, Trần Lê Sơn Ý, Tú Trinh, Phan Trung Thành, Thanh Xuân, Trần Kiến Quốc, Quốc Sinh, Trần Đình Thọ, Ly Hoàng Ly… là những người bạn thơ trẻ.
Nhìn ở góc độ kế thừa hay từ chối, theo tôi, thế hệ sau có cả hai. Sự yêu thơ của một cá nhân nào đó tất nhiên phải bắt đầu từ cái có trước, cái truyền thống. Hiểu theo nghĩa đó thì nhà thơ nào cũng có sự kế thừa. Còn từ chối, theo tôi cũng chỉ có nghĩa là vượt qua sự kế thừa và vượt qua chính mình. Điều này cũng đã được họ thể hiện qua tác phẩm. Cái mới, ngoài cái tứ còn là hình thức, mà chủ yếu là hình thức. Khi có hình thức mới thì nội dung cũng mới theo. Sự biểu hiện cảm xúc thông qua cái mới phải là tài năng, nhưng đi được vào lòng người hay không lại là chuyện khác.
Nhưng điều tôi vẫn thật sự băn khoăn là làm thế nào để thế hệ sau cũng có được điều như các thế hệ trước: Thơ phải đi vào lòng người yêu thơ dù được thể hiện ở hình thức mới mẻ nào.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận