11/07/2004 12:00 GMT+7

Vác đơn đi kiện voi rừng

NGUYỄN HÀNG TÌNH
NGUYỄN HÀNG TÌNH

TTCN - Đây có lẽ là con voi cuối cùng còn lại ở núi rừng nam Tây nguyên (Lâm Đồng). Nó không có tên cũng chẳng ai khẳng định được tuổi, người ta chỉ biết được rằng địa bàn nó hoạt động là vùng Đạ Tồn, thuộc huyện Đạ Huoai.

v4bnhRA6.jpgPhóng to
Một con voi "quậy" ở rừng Tánh Linh (Bình Thuận) đã bị bắt chuyển lên Bản Đôn
TTCN - Đây có lẽ là con voi cuối cùng còn lại ở núi rừng nam Tây nguyên (Lâm Đồng). Nó không có tên cũng chẳng ai khẳng định được tuổi, người ta chỉ biết được rằng địa bàn nó hoạt động là vùng Đạ Tồn, thuộc huyện Đạ Huoai.

Suốt 15 năm qua nó và cư dân trong vùng lạnh lùng thách thức nhau. Cho tới một ngày, chịu không nổi nữa, người dân bèn vác đơn đi kiện... con voi. Người và voi, ai sẽ thắng?

Nơi tôi có mặt là một vùng quê kinh tế mới được hình thành từ 25 năm trước, toàn người Quảng (Quảng Ngãi, Quảng Nam), có tên Đạ Tồn, nằm lọt giữa rừng sâu heo hút, mà ngoại trừ số ít người sinh sống ở huyện Đạ Huoai, còn lại chắc chắn không mấy người Đà Lạt hay Bảo Lộc nghe biết đến nó.

Một dòng suối lớn đủ để gây nên lũ lụt vào mùa mưa cao nguyên, đe dọa mạng người mà những lưu dân sợ hãi chỉ còn có thể gọi là... sông: sông Đạ Quay - bám uốn theo chân những núi đồi. Từ trên núi cao nhìn xuống, hiện ra cả một thung lũng thơm xanh màu cây trái, vườn rẫy. Những tưởng tất cả dưới kia là một cuộc sống trù phú, nhưng nông dân Phạm Văn Thống nói: “Chúng tôi không bao giờ được bình yên, dù với chỉ một con voi! Của cải làm ra như thế nhưng chưa chắc được ăn...”.

Tranh chấp giữa voi và người

Ông Thống kê rằng con voi này ngang tàng, xuất hiện cứ luôn “tự nhiên” như người ta đi... chợ, càn quét từ rẫy trên đến vườn dưới, từ rẫy điều lâu năm đến hoa màu. Mùa gieo trỉa, voi không xuống núi, chỉ đợi khi bắp đã nên trái, mía đã lên cây, nghĩa là khi cây trồng “ăn được” mà nông dân gọi là thời điểm thu hoạch, cứ thế phần thì “ông” (dân ở đây gọi con voi này là thế) ăn, phần thì “ông” giẫm đạp, nghịch phá chơi.

Kết thúc một mùa trồng trọt là hình ảnh những vườn rẫy tan tác, cùng vẻ nơm nớp lo lắng của nhà nông. Có người khi đang nằm trong chòi canh rẫy, nửa đêm “ông” về nhổ luôn trại. Cứ nhắm chỗ nào có nhà cửa là “ông voi” nhổ, tìm đến cái muỗng con ăn cơm để đạp cho nát, huống chi mấy cái máy nổ, lò ép mía: dùng vòi bê nguyên cái che (bộ phận ép mía) ném xa 5-7m...

Đó là lúc nông dân bỏ vườn, bỏ rẫy mà tháo chạy. Chạy ra xa, đến một cự ly an toàn thì đứng nhìn. Ban đầu người ta tập trung thùng thiếc để đánh, rồi đốt lửa đuổi... Nhưng rồi con voi cũng quen với những âm thanh vui tai đó. Không chịu thua, con người tụ nhau lại bỏ công đào nguyên một giao thông hào sâu cả thước, rộng hai thước, kéo dài mấy trăm thước ngay sát chân núi để ngăn đường lên xuống, cách ly “ông voi” với thung lũng trồng trọt bên dưới.

CjWcvGl5.jpgPhóng to
Người dân Cây Xoài rủ nhau đo dấu chân voi (rộng 38cm)
Thế nhưng cũng không ngăn cản được cơn thèm ăn và thèm quậy của “ông”, bởi núi đồi dài ngút ngàn, sức người thì hữu hạn, còn voi không đi đường này thì đi đường khác, phạm vi hoạt động của voi được các nhà sinh thái tính ra tối thiểu đến 2.500ha kia mà! Không ai dám đụng đến “ông”, vì ông là động vật hoang dã quí hiếm mà Nhà nước nghiêm cấm bất cứ sự đe dọa nào.

Nếu hiện hữu cả một đàn voi là điều bình thường, nhưng độc một con đúng là “voi linh”! - dân vùng này nghĩ thế. Thế là buổi ban đầu không một ai không gọi con voi bằng...“ông”, với đầy đủ lòng kính trọng. Khá nhiều người mang đồ ra cúng vái với đầy đủ gà, chuối, nhang khói, cả mía bó nữa, với những câu lạy và van xin từ đáy lòng: “...Ông thương ông đừng phá rẫy con! Cuộc sống gia đình con chỉ dựa mỗi vào cái rẫy mía!”...

Ấy vậy nhưng rồi chẳng “linh thiêng” gì, con voi vẫn lầm lì, ngang ngược, phá dữ hơn, chỉ thiếu điều tấn công chết người. Thế là dần dần người cúng “ông tượng” càng ít, cách xưng “ông” cũng ít dần đi, thay vào đó bằng “con voi”... Có lần, nhìn thấy vườn rẫy tiêu điều, sau mấy buổi chiều cùng kéo nhau ra đứng bên kia bờ sông Đạ Quay nhìn con voi phá, một anh cán bộ xã có biệt hiệu “Minh mổ” (vì bị nhà thương mổ nhiều lần) âm thầm lén nhảy vào rừng để làm một cái gì đó... cứu làng.

Giám đốc Sở NN&PTNT Lâm Đồng Phạm Văn Án:

“Chúng tôi vừa trao đổi với Cục trưởng Cục Kiểm lâm Nguyễn Bá Thụ về sự cần thiết phải di dời con voi này: nhập vào một đàn nào đó ở Bản Đôn (Đắc Lắc) hay Tân Phú (Đồng Nai)... Bởi nếu để thế mãi sẽ không tốt cho đời sống dân sinh; mặt khác nó cũng không thể sinh sản (voi cái) khi chỉ có một mình, và rồi nó cũng chết đi khi về già. Nếu có di dời thì thời điểm cụ thể. Đến lúc này có lẽ vẫn chưa thể trả lời được, vì phụ thuộc tất cả ở Bộ NN&PTNT!”.

Đùng một cái, chiều tối hôm sau, người ta nghe một tiếng nổ lưng chừng núi, rồi thấy có người khiêng xác chàng ta xuống, máu me be bét, thương tích đầy mình. Sau một thời gian dài nằm viện, Minh “mổ” cao mệnh thoát chết kể thiệt: “Hôm đó mang thuốc nổ lên gài trên núi, lối con voi hay lên xuống, giăng dây thật dài để khi nó vướng dây mà phát một tiếng nổ thật to cho sợ mà bỏ rừng này đi luôn. Ai dè, đang loay hoay thấy con voi lù lù xuất hiện phía sau, hoảng quá tôi xoay người cố tháo chạy, vướng phải dây mìn do chính mình vừa cài...!”.

Mọi sự tôn trọng, tín ngưỡng, lẫn tự vệ đều hoài công, thế là chỉ còn cách kiện “ông voi” lên chính quyền. “Đất đai chúng tôi có sổ đỏ hẳn hoi. Tôi làm ăn lương thiện, thế thì tại sao con voi của ông Nhà nước cứ phá, tước đoạt cuộc sống người dân nghèo chúng tôi!”. Dân bảo hễ có voi xuất hiện là làm đơn kiện... voi; hễ mía, bắp... bị phá là đi đếm từng cây để kể tội... voi.

Một đống đơn người ta mang ra cho tôi xem, có cái đề “Đơn voi phá”, “Đơn kiện voi”, có cái đề “Đơn khai báo voi”, lại có cái để “Đơn báo cáo voi”. Bà Lê Thị Châu, một nông dân ở xóm Cây Xoài, thuộc thôn I, xã Đạ Tồn, viết trong đơn “Báo cáo voi” rằng: “Tôi đang canh tác đất khu Cây Xoài, trồng mía, bắp. Nay, ông voi về giẫm, ăn, phá hết. Yêu dsssscầu xem xét ông voi!...”.

Còn ông Ngô Hữu Đức lên tiếng trong lá đơn của mình: “Mấy hôm nay voi rừng lại về rồi, đánh phá hoa màu... Tôi có một miếng đất trồng mía, voi phá ba năm nay, không thể chịu đựng được nữa!...”. Viết mạch lạc hơn một chút, thậm chí nét chữ còn bay bổng, có lẽ là đơn “ Báo voi phá” của ông Nguyễn Văn Thành: “...Kể từ ngày ấy đến nay, voi vẫn về phá liên tục, nặng hơn. Kính đề nghị quí thẩm quyền giúp đỡ cho dân có cuộc sống ổn định, yên tâm!”... Nhà nhà đều làm đơn, mỗi người viết mỗi kiểu, đúng hơn là họ kể về tội con voi theo kiểu của mình, rồi mang lên chính quyền, có người mang lên tới huyện, có người đưa tận tay cho “ông kiểm lâm” nằm vùng: ông Ba Trang...

Năm nào cũng kiện, đâm quen. Thấy người dân có vẻ nhạy bén trong chuyện viết đơn, kê khai hoa màu bị thiệt hại (để được đền bù) bởi voi, thế là “ông” kiểm lâm (hạt kiểm lâm huyện Đạ Huoai) mua ngay ba cái sổ to đùng cử người vượt rừng mang vào giao cho ba anh nông dân hay “nghĩ về voi” nhất ở ba khu vực voi thường về. Gọi tên cho sang là sổ “Nhật ký voi”, nhưng thật ra là thấy gì họ viết đó - viết không cần lĩnh lương! Kiểm lâm sợ mất con voi, còn nông dân sợ nắm không sát giờ giấc nó xuất hiện, kiểu cách, qui mô quậy phá của nó thì kiện sẽ không... tâm phục khẩu phục.

Làm gì với con voi?

Một con voi đôi khi khó “xử lý” hơn một đàn voi. Nếu là một đàn voi thì Nhà nước sẽ quan tâm hơn, sự chú ý sẽ đổ dồn, ví như đàn voi Tánh Linh: người ta đã thực hiện cả một dự án di dời qui mô. Hay đàn voi hiện hữu ở vùng rừng Bản Đôn: có cả một dự án bảo tồn voi, nâng khu rừng lên thành vườn quốc gia...

Cái lỗi do ai đó đưa dân từ miền Trung vào vùng Đạ Tồn để lập khu kinh tế mới, canh tác giữa rừng, kiếm sống ở nơi lẽ ra là của thú hoang, hay cái lỗi nằm ở chỗ con voi đó sống chỉ một mình? Nó sống một mình bao năm, hay núi rừng Đạ Tồn này cũng từng có những đàn voi, để rồi sau đó đã rơi rụng vì những chiếc... ngà!?

0R8jIiLu.jpgPhóng to
Một góc thung lũng Cây Xoài - nơi voi và người dân tranh sống
Con voi này kể ra cũng tội tình, bởi nói như anh chàng kiểm lâm lội rừng cùng tôi suốt một ngày tên Huỳnh Thiên Cường: nếu nó là một con voi đực, nghĩa là ắt có ngà, chắc gì nó còn đến hôm nay để có thể “nổi tiếng” đến thế (bây giờ thì rõ là cả tỉnh Lâm Đồng, từ ông bí thư, ông chủ tịch, đến bà con cô bác xa gần đều biết đến con voi này), nhất là khi báo đài ra rả: năm nào ít nhất cứ thấy mùa mía là thể nào cũng đưa tin về sự quậy phá của nó.

Dừng tay đang vun gốc mía (mà không biết rồi có được ăn!), bà Nguyễn Thị Nhàn kể: hai năm qua voi phá quá, bà xuôi về Bình Dương tìm việc nấu bếp cho căngtin ở một khu công nghiệp. Thấy bà Nhàn ra đi “kiếm sống” được, mấy người đàn bà khác cứ vậy hỏi đường xin theo. Cuộc sống bập bênh với... con voi, đàn bà thì dạt trôi đi rửa bát, bán vé số kiếm ngày mươi lăm ngàn, còn đàn ông thì xuôi về Sài Gòn sơn nước, phụ hồ cho mấy công trình xây dựng kiếm tiền. “Kiếm sống ở thành phố chẳng dễ, nhưng dù sao cũng... chắc hơn ở khu Cây Xoài này!”, bà Nhàn tự an ủi.

Ở một góc khác của thung lũng Cây Xoài, chị Nguyễn Thị Bích Xoa bộc bạch rằng chị không đủ sức khỏe để lang bạt về thành phố làm thuê, thế là bám xứ rừng núi Đạ Tồn. Bám riết mà không thu, trồng mà ít khi được gặt, đâu phải là thứ lười lao động, nhưng kết cục sau mấy năm voi giày, chị nợ “ông” ngân hàng 11 triệu đông, nợ thêm những hộ dân khác 9 triệu nữa.

Làm mía “biếu” mãi cho ông voi (mà đất này không trồng mía, bắp thì không cây gì hiệu quả hơn), chị nghiến răng phen này trồng lúa rẫy. Nhìn rẫy lúa còi cọc mà chị đang dầm giữa nắng trưa, tôi không hiểu bao giờ người đàn bà này trả xong nợ... voi. Mà không chỉ sợ mất hoa màu, dân ở vùng này hằng ngày đi làm cứ sợ nhỡ “ông tượng” trở chứng thì toi mạng không biết lúc nào. Vậy là người nào cũng có cặp mắt sáng quắt vì quen điều tiết bao quát, cảnh giác voi cao độ.

“Làm gì với mỗi một con voi?” - tôi nghĩ sẽ rất khó có câu trả lời, trước những động thái ứng xử lâu nay ở ta khi đâu đó xuất hiện voi. Chính quyền tỉnh Lâm Đồng cho tôi biết rằng văn bản kiến nghị “tìm hướng giải quyết” liên quan đến con voi này đã gửi về Bộ NN&PTNT (cơ quan duy nhất được quyền quyết định số phận động vật hoang dã quí hiếm) “như mưa” suốt hơn mười năm qua.

Trong một văn bản hiếm hoi mà một cơ quan thuộc Bộ NN&PTNT trả lời tỉnh Lâm Đồng đề ngày 22-3-2003 có ghi: “Voi rừng là động vật quí hiếm ở VN và trên thế giới. VN chỉ còn khoảng 100-150 con, thuộc loài voi châu Á (tên khoa học Elephas maximus)... Tỉnh cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nghiêm cấm mọi hành vi săn bắn voi trái phép...”, và chỉ bày: “...Phòng tránh voi từ xa: sử dụng kẻng, thùng, trống để xua đuổi voi, để thông báo cho nhau biết khi voi xuất hiện...”, và “Phục hồi sinh cảnh, tạo môi trường phát triển bền vững cho voi - một khi đã đủ nơi sống, sẽ không còn mâu thuẫn giữa voi với người”.

Tất cả “đòn phép” thì hình như đã cố làm, nhưng chú voi có để ý gì đến những động thái của con người mà chú đã quá hiểu, sau bao năm sống chung “voi không lành, người không ngọt!”. Thôi thì, chỉ còn cách di dời voi hoặc di dời dân. Di dời voi thì Bộ NN&PTNT bảo chưa cần thiết, còn di dời dân thì tỉnh bảo không có tiền.

Những người từng trông thấy con voi ước nó nặng chừng 3 tấn, khoảng 15 tuổi, nghĩa là nếu chấp nhận “sống chung” với nhau thì khả năng phải mất thêm ít nhất trên 50 năm nữa, bởi tuổi thọ loài voi có thể kéo dài đến 70 năm. Vậy là số phận con voi ở rừng Đạ Huoai tiếp tục bấp bênh, mà tính mạng cùng tài sản của hàng trăm người dân ở Đạ Tồn cũng chẳng hơn. Người thì sợ voi nổi giận, nhưng nếu con người mà nổi giận (bây giờ dân Đạ Tồn còn kiềm chế được) thì... biết sao mà lường đây hỡi... rừng!

NGUYỄN HÀNG TÌNH
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên