![]() |
Uyên ương Chín Ảnh - Hai Lan vẫn mặn nồng từ ngày ấy đến giờ - Ảnh: Thái Bình |
Nghe đọc nội dung toàn bài: |
Ngày 30-4-1975, anh du kích Chín Ảnh chui lên từ địa đạo với cả chục vết thương khắp người. Và suốt mấy chục năm qua, những vết thương ấy cứ trở gió là đau nhức nhối. Vậy mà khi gợi lại chuyện đào địa đạo là ánh mắt ông sáng lên kỳ lạ.
Anh đào hầm, em xúc đất
Ngày ấy, xã Nhuận Đức nằm lọt thỏm giữa bốn bề đồn bót mà dù xuất phát từ hướng nào thì địch cũng càn quét qua đây. Từ sau Đồng khởi 1960, địch tăng cường càn quét, bắt bớ gây cho ta nhiều tổn thất. Trước tình thế đó, Đảng ủy xã Nhuận Đức đã phát động phong trào đào địa đạo. Cả xã rùng rùng vào trận.
"Đêm hôm gà gáy, sống chết cũng đi, vui lắm!", bà Trần Thị Sum, 68 tuổi, nhắc nhớ lại thời tuổi trẻ sôi nổi của mình. Theo lời bà kể, lúc bấy giờ phong trào Đoàn thanh niên ở xã Nhuận Đức rất mạnh. Khi có việc cần kíp, cán bộ Đoàn dùng loa mo cau "ới" một tiếng là hàng trăm thanh niên có mặt. Thời ấy, trai tráng việc gì cũng đi đầu, nếu không tòng quân thì tham gia du kích hoặc đào địa đạo, gài bẫy chông, phá đường giao thông... Bà Lê Thị Dìm, 64 tuổi, còn nhớ rõ: "Trai gái mười tám đôi mươi như tụi tôi cứ sáng lo việc nhà, chiều tối đi đào địa đạo. Con trai đào hầm, con gái xúc đất, có khi làm thâu đêm". |
Hồi ấy, Ảnh là bí thư xã đoàn, còn Lan là ủy viên ban chấp hành. Mái tóc dài tha thướt của Lan đã làm mê mẩn mấy anh trai làng. Tuy gặp nhau hằng ngày nhưng Ảnh không dám mở lời. Hai năm sau, trong một đêm cùng đào địa đạo, Ảnh lúng túng ngỏ lời yêu thương bằng cái nắm tay nóng hổi. Ông Chín Ảnh cười cười: "Thời bấy giờ tư cách được đặt lên hàng đầu, xớ rớ là... ôm hận".
Rồi Chín Ảnh đưa gia đình sang thưa chuyện với nhà gái và báo cáo tổ chức cho làm lễ tuyên bố. Hôm đó, chú rể không chạy nổi xe đạp chở cô dâu trong lễ rước dâu vì suốt một tuần trước đó anh phải chui địa đạo chống càn. Đại diện tổ chức long trọng tuyên bố: "Vui duyên mới không quên nhiệm vụ, đẹp tình nhà công tác hăng say".
Được hai năm, khi sư đoàn 25 "Tia chớp nhiệt đới" đến đóng ở căn cứ Đồng Dù thì Nhuận Đức trở thành "vùng trắng", đồng bào phải đi sơ tán. Chia tay chồng, Lan gửi hai con theo ngoại rồi hòa mình vào phong trào đấu tranh công khai ở Bến Cát (Bình Dương). Được ít lâu cô bị giặc bắt.
Vào giữa năm 1968, từ trong tù người mẹ trẻ đau xé lòng khi hay tin một trong hai con mình bệnh chết. Ra tù, chị vẫn tiếp tục hoạt động. Lúc ấy kẻ thù tung tin "vợ Chín Ảnh lấy cảnh sát". Nghe tin đồn, Chín Ảnh chết điếng. Mãi đến năm 1972, họ mới được gặp lại sau bảy năm xa cách. Trở về Bến Cát, Lan chủ động tung tin "anh Chín đã chết" và khoe cái bụng bầu đang mang là của một viên cảnh sát vu vơ nào đó. Chính vì vậy mà sau này bà con lối xóm choáng váng khi Chín Ảnh lù lù "sống lại"... Tuổi đã xế chiều nhưng ông bà Chín Ảnh-Hai Lan giờ vẫn yêu thương nhau bằng cái tình của một thời cả làng rùng rùng kéo nhau đi đào địa đạo.
Nỗi niềm góa phụ
![]() |
Uyên ương ngày ấy giờ chỉ còn bà Lê Thị Dìm bên di ảnh chồng bà, liệt sĩ Trần Văn Nên - Ảnh: Thái Bình |
Hồi ấy, con trai con gái Củ Chi không sợ bom đạn nhưng rất "cù lần" trong chuyện lứa đôi. Gặp mặt hằng ngày, cùng đào địa đạo thâu đêm nhưng họ chỉ dám âm thầm để ý nhau chứ không dám ngỏ lời. Như chuyện kể của bà Sum: mãi đến ngày cưới, bạn bè động viên quyết liệt chú rể Gình mới rụt rè "thơm" lên má cô dâu nụ hôn đầu đời.
Cưới nhau chưa được bao lâu, do bom đạn ác liệt nên Gình phải gạt nước mắt tiễn vợ con đi sơ tán. Rồi một ngày người vợ trẻ đột ngột nhận được tin chồng mình hi sinh. Mãi đến năm 1985, phần xương cốt liệt sĩ Nguyễn Văn Gình mới được tìm thấy vùi lấp trong một đoạn địa đạo khi xưa bị bom đạn phá sập. "Lúc chia tay ảnh khỏe mạnh là thế mà giờ chỉ còn lại nắm xương tàn", giọng bà Sum nghèn nghẹn.
Cũng vậy, đôi bạn Nên-Dìm lấy nhau mới được hai năm thì phải chia tay. Cô vợ trẻ ra huyện lỵ Củ Chi làm nghề cạo mủ cao su nuôi hai con nhỏ. Mỗi khi nhớ, Dìm lại lặn lội vào "vùng trắng" thăm chồng. "Gặp nhau chưa nói được gì thì phải lo về để phòng địch nghi ngờ" - bà Dìm cho biết. Có lần đi thăm chồng về thì Dìm bị địch bắt vô căn cứ Đồng Dù tra hỏi suốt cả tuần. Hồi đó, cứ mỗi lần gặp nhau là chiến sĩ Nên lại động viên cô vợ trẻ: "Em ráng chịu cực chịu khổ nuôi con, mai mốt hòa bình anh nuôi phụ”. Nhưng đến ngày giải phóng thì anh không về: anh Nên hi sinh tháng 8-1973, đến tháng chín cô vợ trẻ nhận được giấy báo tử gửi kèm theo lá thư cuối cùng chất chứa bao lời yêu thương của người liệt sĩ chưa kịp gửi đến vợ con.
Khi Nên hi sinh Dìm mới hơn 20 tuổi. Một nách ba con dại, người vợ liệt sĩ ấy đã dành suốt cả phần đời còn lại của mình cho những đứa con, không đi bước nữa. "Lúc bình thường chẳng nói làm chi, những khi con cái ốm đau tủi thân không kể xiết" - bà tâm sự. Bà kể nhiều lúc nhà không có gạo phải ăn khoai củ. Cũng có không ít người đến hỏi chuyện nghiêm túc nhưng bà sợ "lỡ ra" thì con cái khổ sở nên thôi. Cũng vậy, bà Sum suốt mấy chục năm qua cứ một mình làm lụng nuôi các con khôn lớn. "Chiến tranh là phải kẻ còn người mất" - bà bộc bạch.
"Hồi trước trai tráng rất đông, đến lúc giải phóng chỉ còn bà già và con nít" - bà Dìm cho biết. Cũng như bà, trong xã còn nhiều góa phụ khác thui thủi một mình nuôi con, "uyên ương địa đạo" ngày xưa chỉ còn mấy đôi vui vầy hạnh phúc.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận