![]() |
Một cháu bé bị nghi nhiễm cúm gà |
Bao nhiêu người uống nước sông?
Khảo sát ngẫu nhiên 100 hộ gia đình trong một ấp thuộc tỉnh Long An có thể ghi nhận được các nguồn nước uống của người dân như sau, xem bảng 1:
![]() |
Bảng 1 |
Hơn 50% hộ gia đình uống nước sông/ kênh rạch trong mùa nắng. Trong mùa mưa, tỉ lệ này giảm xuống nhưng vẫn ở mức cao hơn 30%.
![]() |
Bảng 2 |
Còn ở bảng 2 là kết quả khảo sát ngẫu nhiên 100 hộ gia đình tại một ấp của tỉnh Vĩnh Long:Vào mùa nắng có gần 60% hộ gia đình sử dụng nước sông để uống. Vào mùa mưa, tỉ lệ thấp hơn nhưng vẫn ở mức trên 10%.
Vấn đề đáng quan tâm hơn là hầu như nước lấy lên từ sông/rạch chỉ được xử lý qua loa trước khi uống.
Ghi nhận từ cuộc điều tra về hiểu biết - thái độ - thực hành (điều tra KAP **) nói trên ở Long An như sau “đa số người sử dụng nước sông, mưa hoặc giếng đều nói là họ có xử lý nước trước khi uống.
Tuy nhiên, khái niệm xử lý của những người được phỏng vấn có thể không hoàn toàn giống nhau. Đối với 85,2% người dùng nước sông, kênh có xử lý trong mùa mưa và 98,8% có xử lý trong mùa nắng, cách xử lý phổ biến nhất là cho lóng trong bằng phèn và để lóng trong tự nhiên”.
Chưa có một khảo sát qui mô về tình hình ô nhiễm của các dòng sông và kênh rạch ở đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên trên thực tế dễ dàng thấy sự ô nhiễm trầm trọng của các con sông, kênh rạch bởi phân người từ những cầu tiêu trên sông, từ thói quen vứt tất cả rác thải xuống kênh rạch của người dân. Khuynh hướng sử dụng thuốc trừ sâu ngày càng tăng dẫn đến một dư lượng thuốc trừ sâu tích lũy ngày càng nhiều trong nước sông. Trong tình hình dịch cúm gia cầm đang hoành hành như hiện nay, mức độ ô nhiễm càng lớn bởi xác gia cầm, bởi phân và chất thải của các loài thủy cầm bị bệnh.
Lắng phèn và lắng trong tự nhiên không thể tách các độc chất như thuốc trừ sâu, các mầm gây bệnh nguy hiểm ra khỏi nước uống. Hằng ngày, người dân đang tự đầu độc cơ thể họ thông qua uống nước sông, kênh rạch.
Tại sao người dân uống nước sông?
Các nguyên do khách quan
Khan hiếm nước ngọt, nhất là trong mùa nắng (không còn nguồn nước mưa “trời cho”). Chỉ có những hộ khá giả mới có lu chứa đủ nước để uống trong mùa khô, những hộ trung bình và nghèo không có khả năng trữ nước mưa để uống, trong khi đó các giếng đào thì lại cạn kiệt.
Một số địa phương như Đồng Tháp Mười có sáu tháng mùa nước nổi, người dân có khuynh hướng không sắm nhiều lu chứa nước mưa để khỏi mất công di chuyển chúng theo con nước và cớ sao họ lại phải lo trữ nước khi xung quanh họ bốn bề là nước?
Ngày nay người dân có thể dễ dàng mua các loại kháng sinh để uống, do vậy các dịch bệnh liên quan đến nước không còn xảy ra hàng loạt như ở các thế kỷ trước. Các độc chất khác trong nước như thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ, thuốc cá có khuynh hướng tích lũy nồng độ dần dần trong cơ thể, do vậy sẽ làm hao mòn sức khỏe từ từ chứ không xảy ra tức thì. Tất cả đã tạo cho người dân tâm lý phớt lờ, mặc kệ, thậm chí họ không tin uống nước như vậy có hại cho sức khỏe. Khi được hỏi, câu trả lời của họ thường là “Uống vậy từ đời nào tới giờ có ai bị bệnh gì đâu”.
Nguyên nhân chủ quan
Người dân hiểu và tin rằng nước sạch là nước trong. Trong đợt khảo sát trên 500 người ở năm tỉnh đồng bằng vào tháng 10-2003 của dự án cấp nước và vệ sinh nông thôn các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long có đến 400 (chiếm tỉ lệ 80%) người trả lời nước sạch là nước trong. Chính vì tin như vậy nên người dân chỉ cần lấy nước sông lên lắng phèn hoặc để lắng bùn cho nước trong là uống.
Giải pháp nào cho tương lai?
Đẩy mạnh công tác thông tin - giáo dục - truyền thông về nước sạch cho người dân nông thôn nhằm từng bước thay đổi hành vi uống nước của người dân. Cụ thể như sau:
Truyền thông cần giúp người dân hiểu rõ tác hại của uống nước không sạch lên sức khỏe của họ. Cần làm cho họ hiểu thế nào là nước sạch.
Kênh truyền thông nên phối hợp các kênh truyền thông đại chúng với kênh truyền thông trực tiếp. Truyền thông đại chúng nên sử dụng ở giai đoạn đầu để làm tăng kiến thức của người dân, truyền thông trực tiếp mới là kênh chủ yếu giúp người dân thay đổi.
Khuyến khích người dân nấu nước chín trước khi uống, song song cung cấp các hóa chất xử lý nước cho những vùng lũ, những vùng khó khăn về chất đốt.
Xã hội hóa cấp nước nông thôn, đầu tư xây dựng các mô hình cấp nước sạch phù hợp cho từng địa phương.
________________________________
(**) Dự án cấp nước và vệ sinh nông thôn các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long là dự án hợp tác giữa hai chính phủ Việt Nam và Úc, thời gian hoạt động của dự án từ 2002 – 2006. Văn phòng ban quản lý dự án ở 44 Hoàng Thái Hiếu, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận