![]() |
Tranh: Hoàng Tường |
Muốn nâng cao chất lượng GD, việc đầu tiên phải có tiền, trong khi Nhà nước chưa lo được hết thì xã hội - cụ thể là phụ huynh HS - phải chung tay đóng góp, nhiều người nghĩ như vậy.
Nhưng với rất nhiều người khác, “tiền đâu” không phải là vấn đề đầu tiên ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học, vì vậy, kê toa “tăng học phí” là “nhầm thuốc” đối với việc “chẩn bệnh” chất lượng GD.
Tọa đàm tháng 9 của DNSGCT, với thành phần khách mời khá đa dạng - nhà quản lý giáo dục, chuyên viên kinh tế, giảng viên trực tiếp đứng lớp, nhà báo chuyên viết về giáo dục - đã mổ xẻ chuyện “Tăng học phí và chất lượng giáo dục” một cách trực diện, đôi khi khá gay gắt, nhằm đi đến một sự đồng thuận cho vấn đề rất nhạy cảm này.
Phải đầu tư mới có chất lượng? Nếu được phép làm, ngành giáo dục Việt Nam sẽ làm tốt?
Về đề tài GD, có lẽ không vị khách mời nào rành rẽ bằng ông Huỳnh Công Minh, giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo TP. Hồ Chí Minh. Bởi vậy, việc ông được mọi người đề nghị mở đầu cũng dễ hiểu. Ông đề cập ngay đến chất lượng GD và cho rằng nếu nghĩ đơn giản chất lượng chỉ là tỷ lệ HS lên lớp, tỷ lệ tốt nghiệp… là không đúng. Chất lượng GD là làm sao đào tạo ra những con người năng động, tự tin, đủ năng lực làm chủ xã hội, phương tiện, điều kiện làm việc.
Khi xác định mục tiêu như thế, một lớp học ở các nước chỉ khoảng 15-20 HS, vừa học vừa chơi. Nội dung chương trình chúng ta dạy một buổi thì họ kéo ra cả ngày, nhiều nội dung thầy giáo không cần dạy, HS chỉ cần hoạt động trên thiết bị là chiếm lĩnh tri thức, đồng thời rèn luôn kỹ năng, biến nhận thức thành kỹ năng. Còn chúng ta dạy lý thuyết từ chương nên rất nặng nề, cứ đọc chép, học thuộc lòng mà nhiều khi HS chẳng hiểu gì, như học luật giao thông rất tốt, làm bài 9-10 điểm nhưng vẫn vi phạm luật khi đi đường.
![]() |
Ông Huỳnh Công Minh, Giám đốc Sở GD-ĐT TP.HCM: “Có một thực tế là dân mình chỉ muốn học trường công lập” |
Theo ông Huỳnh Công Minh, nếu tổ chức dạy - học như nước ngoài, chi phí cho GD sẽ lớn hơn nhiều so với hiện nay. Đó là lý do GD cả nước nói chung, TP.HCM nói riêng không thể đáp ứng được yêu cầu về đầu tư và vì vậy, thu học phí là chuyện “chẳng đặng đừng”.
Ông nói: “TP.HCM hàng năm dành 20% ngân sách đầu tư xây dựng cơ bản cho ngành GD để xây trường lớp, chưa tính phần xã hội hóa GD và vốn kích cầu. Khoảng 22% ngân sách GD dành cho chi thường xuyên, nghĩa là trả lương, chi hành chánh sự nghiệp, những hoạt động trong nhà trường, thí nghiệm, điện nước…
Lấy 80% của 22% này chi cho lương GV (trung bình khoảng 1 triệu đồng/tháng), 20% còn lại không đủ để cho các hoạt động thực hành, thí nghiệm… nữa. Chính vì vậy, phải dựa vào học phí. Cũng có ý kiến cho rằng tại sao trường công lập mà thu tiền nhiều quá. Tôi cũng rất trăn trở. Lấy ví dụ chúng ta có 1.000 HS, muốn trường công ra trường công, thì chỉ có thể nhận được 300 em được học miễn phí hoàn toàn. Như vậy, 700 em kia phải đóng học phí với giá tư thục, có thể gấp ba lần học phí hiện nay. Mà giữa em học miễn phí với em phải đóng gấp ba lần ấy, nhiều khi năng lực, hoàn cảnh không chênh lệch bao nhiêu.
Trong nghị quyết Đại hội Đảng bộ TP.HCM có một tiêu chí rất quan trọng là năm 2008 ngành GD phải đạt được phổ cập bậc trung học. Nhưng chỉ cần cho các em ra khỏi trường công lập thì rất nhiều em sẽ nghỉ học ngay. Khi đó, ai chịu trách nhiệm? Tôi thấy chúng ta nên theo con đường hiện nay, tức là HS đóng một khoản tiền vừa phải. Song song đó, phải thực hiện triệt để chế độ miễn giảm học phí cho HS nghèo, để tránh tình trạng một bộ phận có thể đóng được tiền thì không có cơ hội để đóng, còn bộ phận khác không có tiền mà phải đóng học phí. Nhiều người có tiền bây giờ chê trường Việt Nam, cho con theo học các trường có tên quốc tế, đóng học phí bằng đô la.
Thực ra, những trường quốc tế đó chưa phải trường nào cũng sánh được với những trường như Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai… của TP.HCM. Vì vậy, nói đến chất lượng GD, tôi muốn đề cập đến vấn đề đầu tư. Chỉ vì chúng ta không có điều kiện để làm, chứ nếu được phép làm, ngành GD đủ sức tạo ra nhiều thế hệ HS không kém gì các nước. Phải tạo điều kiện cho ngành GD làm thì mới làm được. Đào tạo sư phạm hiện nay dù có đổi mới nhưng vẫn còn ảnh hưởng của phương pháp dạy học cũ, HS ngồi yên, thầy giáo trình bày bảng viết trong lớp phải đẹp, nói cho hết sách giáo khoa, đừng cháy giáo án… Thế thì làm sao họ hiểu tâm lý trẻ em, chăm sóc, động viên các em “mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, biến nội dung SGK thành những trò chơi, hoạt động gợi mở cho các HS...?”.
Tăng học phí không là giải pháp để tăng chất lượng! nâng cao chất lượng giáo dục từ đâu?
![]() |
Nhà báo Mai Lan (báo Sài Gòn Giải Phóng): “Không thể nâng chất lượng GD khi tất cả các vấn đề về nội dung, chương trình không được giải quyết” |
- Thời gian qua, dư luận rất quan tâm đến chuyện tăng học phí và đặt câu hỏi có sự liên quan nào giữa chất lượng GD và tăng học phí hay không. Rõ ràng tăng học phí trong bối cảnh chương trình, nội dung GD xa rời cuộc sống như hiện nay sẽ chẳng giải quyết được gì. Không thể nâng chất lượng GD khi tất cả các vấn đề về nội dung, chương trình không được giải quyết. Vậy ta nên cải tổ lại nội dung, hệ thống khung chương trình trước hay nên tăng học phí trước? Ông Huỳnh Công Minh vừa cho biết tiền lương cho GV bình quân chỉ một triệu đồng/tháng.
Nhưng theo số liệu thống kê chính thức của Bộ GD-ĐT tính trên cả nước, năm 2007 tổng ngân sách GD là 66.770 tỉ (năm 2001 chỉ có 12.649 tỉ), riêng phần chi thường xuyên năm 2007 là 55.240 tỉ (khoảng 80% tổng ngân sách GD). Nếu chi lương GV, theo ước tính của ngành GD-ĐT chiếm khoảng 80% ngân sách chi thường xuyên (khoảng trên 44.000 tỉ đồng) chia cho khoảng 1,1 triệu GV) thì lương bình quân mỗi GV sẽ khoảng 3,5 triệu/tháng, đủ để họ trang trải cuộc sống.
Nhưng thực tế, lương GV thấp hơn nhiều, vậy số tiền còn lại sử dụng vào đâu? Ngành GD luôn nói rằng thiếu tiền để trả lương GV, nhưng thiếu bao nhiêu lại không công bố rõ ràng, thu chi học phí ra sao cũng không ai biết, vì thế đề án tăng học phí nhằm góp phần tăng lương GV mới không được xã hội đồng tình.
Chúng ta nên nâng cao chất lượng GD từ đâu? Từ tăng học phí hay thay đổi nội dung? Bộ GD-ĐT vừa mời một đoàn giáo sư ĐH Harvard (Hoa Kỳ) sang nghiên cứu về giáo dục đại học Việt Nam, điều họ đề nghị đầu tiên không phải là tăng học phí, cơ sở vật chất mà là cải tổ chương trình.
Theo tôi, đây mới là vấn đề chính yếu. Thay đổi chương trình, cách thi, cách tuyển sinh sẽ làm chuyển biến chất lượng GD. Còn tăng học phí, mà số liệu thu chi chưa minh bạch thì người dân sẽ không dễ dàng chấp nhận. Một khi người dân được biết đồng tiền của họ được xài đúng (không bị tham những dưới nhiều dạng), thì tôi nghĩ họ cũng vui lòng “gian khổ cùng Nhà nước” trong khả năng kinh tế của họ để con em có điều kiện học tốt nhất.
Ý kiến của nhà báo Mai Lan cũng là dòng suy nghĩ chủ lưu trên các diễn đàn về GD hiện nay. Trong khi mọi người chờ đợi sự phản hồi từ người quản lý ngành GD, ông Huỳnh Bửu Sơn, chuyên gia kinh tế, đặt ra một vấn đề khác: “Tôi nghe ông Huỳnh Công Minh nói đến hai điều rất căn bản và quan trọng: một là phải lo cho mọi người đi học, phải có chỗ để học; hai là chất lượng GD phải ngang tầm thế giới.
Thật ra, nếu đạt được hai điều đó thì GD Việt Nam đã có nền tảng vững chắc. Nhưng nếu chủ trương của chúng ta là phổ cập đến hết lớp 9, thì có phải trẻ em sẽ được miễn học phí hết cấp học đó không? Tôi hiểu phổ cập theo nghĩa mọi người đều được đi học mà không phải trả tiền, chứ không phải mọi người buộc phải đi học để được cấp một văn bằng ở trình độ phổ cập đó. Trong điều kiện hiện nay, liệu Nhà nước có thể thực hiện chính sách GD miễn phí cho mọi trẻ em trong lứa tuổi đến cấp nào?
Thứ hai là về chất lượng GD, tôi nghĩ rằng HS Việt Nam rất tội nghiệp, vì (nhất là bậc trung học) đang phải học nhiều gấp đôi HS các nước khác. Với kiểu học như thế thì đến khi lên đại học, các em không còn sức để học. Ở bậc trung học phổ thông, chúng ta nên giảm chương trình học, cho các em có thời giờ nghỉ ngơi để phục hồi phát triển trí tuệ. Giảm thời gian học thì sẽ tạo ra nhiều lớp để nhận thêm học trò. Thay vì học hai buổi, giờ chỉ học một buổi mà chất lượng vẫn đảm bảo, khi đó các trường có thể sẽ nhận được số lượng HS gấp hai lần.
Nếu ngân sách GD được dành đúng đắn cho việc trang bị các phương tiện dạy học (vi tính…) thì không có gì đáng lo, vì nước ta chi cho ngành GD vào loại nhất thế giới, nếu tính theo tỷ lệ GDP. Vả lại, các phương tiện máy móc trước đây đắt bây giờ cũng đã rẻ, rồi còn có các quỹ từ thiện, cơ quan… tài trợ cho chuyện vi tính hóa học đường, như vậy việc đạt chất lượng tốt bậc trung học là trong tầm tay”.
Thiếu trường lớp phải chăng vì chậm “xã hội hóa”? Những điều “không nói ra thì không ai biết” của ngành giáo dục
![]() |
Ông Huỳnh Bửu Sơn, chuyên gia kinh tế: “Tôi hiểu phổ cập theo nghĩa mọi người đều được đi học mà không phải trả tiền” |
Ông Huỳnh Bửu Sơn cho biết một điều ngạc nhiên là HS Việt Nam học rất tốt ở bậc THPT, nhưng lên ĐH thì rất kém. Các ĐH nước ngoài có thể thừa nhận bằng tú tài nhưng không thừa nhận văn bằng ĐH, cao học, tiến sĩ của Việt Nam. Tức là đã có một sự đi xuống ở bậc đại học. Vậy đã có ai trăn trở về vấn đề này và có đặt mục tiêu đến năm 2020, các bằng ĐH của ta sẽ được quốc tế thừa nhận? Điều này rất quan trọng, giúp tiết kiệm công sức, thời gian đầu tư cho việc học, vì nếu tập trung sức cho việc học mà bằng cấp không được chấp nhận thì sẽ rất lãng phí.
Ông Sơn đặt câu hỏi: “Phải chăng trong một thời gian rất dài, chúng ta không thực hiện việc dân lập hóa vì nghĩ rằng GD là vấn đề Nhà nước phải quản lý? Dân số cứ tăng, đâu có chờ chuyện thay đổi của ngành giáo dục, nên trường công ngày càng thiếu, việc xây dựng cơ sở vật chất cho trường công ngày càng không theo kịp số HS tăng nhanh.
Những doanh nghiệp tư nhân trong ngành GD thay vì được mở ra cùng lúc với doanh nghiệp tư nhân trong các ngành khác thì lại bị chậm, nên không thể cùng chia sẻ vai trò quá nặng này với Nhà nước. Khi chúng ta bắt đầu thừa nhận chuyện dân lập cũng là lúc nhu cầu của người dân quá lớn. Chúng ta thấy nên “xã hội hóa GD”, nhưng lại hiểu “xã hội hóa” là đóng học phí cho trường công, mà quên rằng đúng ra các trường dân lập phải thực hiện vai trò xã hội hóa GD, còn trường công phục vụ mục tiêu phổ cập GD. Người dân khi ấy chia thành hai nhóm: một nhóm có khả năng cho con vào học trường tư, nhóm kia không có khả năng thì cho con vào trường công, chất lượng dạy học vẫn ngang nhau, trường tư có thể nhích hơn chút đỉnh do có những điều kiện phụ thêm như ăn tại trường…”.
Dù rất muốn nghe các ý kiến khác, nhưng khi thấy mọi người chờ đợi ở ông một lời giải đáp của một nhà quản lý GD, ông Huỳnh Công Minh lên tiếng: “Để đảm bảo được trường công cho tất cả thì phải xây thêm trường, mà tôi tin chắc không tỉnh thành nào của nước ta xây mới nhiều trường học như TP.HCM. Tuy nhiên, số lượng trường lớp tăng thêm đó không kịp với sự gia tăng số lượng HS, chưa kể HS các tỉnh về TP.HCM xin học chiếm đến 40%. Người ta xin cho con chuyển trường về thành phố, họ nói “lên thành phố giống như đi du học”, chúng tôi đâu có thể bỏ mặc?
Số tiền miễn giảm học phí cho HS nghèo hàng năm của TP.HCM khoảng 10 tỉ đồng. Những hội đoàn ở địa phương đang hoạt động rất tốt, có nơi không chỉ lo học phí cho HS nghèo mà còn áo quần, sách vở nữa. Nhiều địa phương nắm số lượng HS sáu tuổi vào lớp 1, gửi giấy tới nhà thông báo cho phụ huynh biết con em mình sẽ vào trường nào… Những việc làm đó của ngành GD đôi khi các anh chị không đánh giá hết.
Người dân TP.HCM đọc thông tin trên báo chí về GD cả nước, rồi tưởng rằng GD thành phố mình cũng tệ như vậy, trường không ra trường, thầy không ra thầy, thực ra không phải. Vấn đề chất lượng, chương trình học bao nhiêu môn phải do Bộ quy định, theo đúng Luật GD, địa phương chỉ chấp hành thôi. Vừa rồi Sở GD-ĐT TP.HCM có tổ chức một hội thảo khoa học “Nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông”, Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân cùng với lãnh đạo thành phố chủ trì. Sau hai ngày, hội thảo xác định hai lĩnh vực để nâng cao chất lượng là nội dung chương trình và đầu tư.
Bộ GD-ĐT đã cho phép “thống nhất trọng tâm bài giảng để nâng cao chất lượng GD phổ thông của TP.HCM”, theo đó ngành GD TP.HCM được phép soạn giáo án riêng để dạy. Nghĩa là sẽ lọc bớt những gì thừa để biến thành giờ vui chơi cho HS, tiếp cận dần với tiêu chuẩn GD quốc tế. Giáo dục của chúng ta không phải chỉ có nỗi buồn, chẳng hạn chuyện HS Lê Hồng Phong, Trần Đại Nghĩa… luôn được các trường ĐH nước ngoài đón nhận. Trong một lần làm việc làm việc với ĐH Quốc gia Singapore, vị giáo sư trưởng phòng đào tạo ở đây cho biết HS Việt Nam rất giỏi nên họ rất cần và sẽ cấp nhiều học bổng. HS mình qua đó học sẽ làm gương cho HS Singapore, chưa kể khi tốt nghiệp sẽ ở lại làm việc cho nước họ, họ đánh giá rất cao HS chúng ta.
Chuyện có hay không chậm mở trường dân lập, tôi không bàn ở đây, nhưng có một thực tế là dân mình chỉ muốn học trường công lập. Vừa rồi TP.HCM tuyển 60.000 HS lớp 9 vào lớp 10, chỉ dành lại khoảng mười mấy phần trăm để vào các trường dân lập và tư thục, lập tức dư luận đã cho rằng mấy ngàn HS không có chỗ học! Toàn TP.HCM có 170 trường tuyển sinh, trong đó có nhiều loại hình: dân lập, công lập, tư thục… nhưng người dân chỉ thích trường công, nếu con em mình không vào trường công thì coi như không có chỗ học, chứ trường đâu có thiếu.
Với những số liệu của chị Mai Lan, con số của cả nước tôi xin không đề cập, còn tỷ lệ chi thường xuyên của TP.HCM đúng là có tăng trong những năm vừa qua (từ 17%-22%). Nhưng mà quy mô của ngành GD cũng tăng, từ 40.000 GV lên đến gần 70.000 GV hiện nay”.
Hội nhập từ chế độ thi. Phân tích số liệu dưới giác độ kinh tế - xã hội
![]() |
Ông Nguyễn Văn Sơn, chuyên viên kinh tế: “Đào tạo là phải hội nhập, giờ đây mình chơi với thế giới mà kết quả dạy và học không giống ai, tức là… không ổn” |
- Mình thường gộp chung GD và ĐT, tôi muốn phân biệt cho rõ. Đầu tiên phải xác định mục tiêu GD của người Việt Nam. Ông bà ta thường dạy con người phải có trí, có đức… nên mục tiêu là như thế. Đào tạo là phải hội nhập, giờ đây mình chơi với thế giới mà kết quả dạy và học không giống ai, tức là… không ổn.
Tất cả sự tính toán, đầu tư để đạt chuẩn thế giới nhằm mục đích gì, nếu lĩnh vực GD-ĐT không đạt chuẩn thế giới? Vậy cần phân bố đầu tư thế nào cho thích hợp? Chúng ta đã nói về GV, chương trình… nhưng theo tôi với cách thi, chế độ thi như hiện nay thì người ta phải dạy và học như vậy thôi. GV dạy HS để đi thi, nên thi khác thì cách dạy sẽ khác. Sao chúng ta không hội nhập từ chế độ thi, xem nước ngoài họ thi ra sao để sửa chương trình của mình?
Riêng phần đầu tư, tôi có những số liệu của quốc gia và các địa phương, đặc biệt là ĐBSCL (từ năm 2000 đến 2006) để mọi người đánh giá xem nó tệ đến mức nào. Dân số cả nước tăng 1,4%/năm, số HS mẫu giáo tăng 2,2%/năm, nghĩa là chúng ta chăm lo cho trẻ nhỏ nhiều hơn, mặc dù số sinh ngày càng giảm (hiện tỷ lệ HS mẫu giáo trên dân số là 3%). Tuy nhiên, số HS tiểu học lại giảm 5,3%, đây là một vấn đề lớn, cần làm rõ nguyên nhân. Số HS trung học cơ sở tăng 0,8%/năm và số HS THPT tăng 6% là điều đáng mừng, chứng tỏ thu nhập và ý thức của người dân đã tăng lên nên dù dân số trong độ tuổi này giảm, số HS vẫn tăng cao.
Trong khi đó, tốc độ tăng GDP của nước ta nếu quy về không trượt giá là 7,6%/năm, gấp hơn năm lần tốc độ tăng dân số. Dưới góc độ kinh tế, tốc độ tăng GDP chỉ cần gấp 2,5 lần tốc độ tăng dân số đã có thể tự trang trải, tự duy trì được, hơn con số này là có tích lũy và phát triển.
Hãy xét đầu tư cho GD-ĐT. Vốn đầu tư xã hội (tính cả Nhà nước, nhân dân, nước ngoài) tăng từ 6.084 tỉ đồng lên 12.862 tỉ đồng (2006), trong đó của Nhà nước tăng từ 5.709 tỉ đồng (đồng nghĩa với vốn đầu tư chủ yếu của Nhà nước) lên 9.909 tỉ đồng. Điều này chứng tỏ ngày càng có thêm nguồn của nhân dân và nước ngoài đầu tư cho GD. Tuy nhiên, tốc độ tăng GDP là 7,6%/năm mà đầu tư cho GD chỉ tăng có 6,9%/năm là thấp. Hệ số đầu tư cho GD so với tăng GDP phải 1,2 trở lên, tức là tương ứng với GDP tăng 7,6% thì đầu tư cho GD phải tăng hơn 9,12%/năm mới tốt. Tỷ lệ vốn đầu tư xã hội (đầu tư xây dựng cơ bản trên GDP) nước ta chỉ đạt 1,3%/năm, trong đó đầu tư của Nhà nước trên GDP chỉ 1%.
Chi sự nghiệp tăng 13,1%/năm, chứng tỏ lương và đời sống GV được nâng lên, nhưng chắc chắn không đồng đều ở các địa phương. Tỷ lệ chi cho sự nghiệp bình quân cả nước chỉ có 11,8%, vậy mới thấy ở các tỉnh tỷ lệ này sẽ thấp hơn bình quân vì tỷ lệ này ở TP.HCM - vốn chiếm trọng số rất lớn - chiếm đến 22%.
Riêng ở ĐBSCL, chỉ có 4,9% trường học đạt chuẩn quốc gia. Số còn lại là gì? Là nhà tạm, nhà cấp 4. Trường tiểu học mà không có sân chơi, nhà vệ sinh thì làm sao đạt chuẩn? Sách giáo khoa có rất nhiều chuyện để nói. Riêng môn đạo đức, tôi đọc năm cuốn SGK tiểu học và thấy rằng nếu ngày xưa sách luân lý dạy HS vừa học vừa hành, thì bây giờ chỉ có học mà thôi. Thử hỏi “tiên học lễ, hậu học văn” ở đâu, trong khi mục tiêu của GD tiểu học là trang bị đạo đức cho con người từ thuở nhỏ. Chúng ta tự nhận là tiến lên hiện đại mà vẫn đậm bản sắc dân tộc, nhưng tôi cho rằng sách đạo đức như vầy là đang làm mất dần bản sắc dân tộc.
Tỷ lệ huy động HS đi học mới nhức nhối. Tùy theo sự quan tâm của chính quyền địa phương mà tỷ lệ này cao hay thấp. Nhà trẻ từ 4,2%-21%, mẫu giáo (5 tuổi) khoảng 50%. Tiểu học 96%-99,4% là khá tốt, nhưng đến bậc THCS chỉ còn từ 77%-90% và đến THPT tỷ lệ rớt xuống còn 36,5-44,7%. Có một số rất lớn HS đã không thể tiếp tục việc học. Con đường để đi lên đến tỷ lệ 70% để phổ cập THPT còn xa lắm.
Về HS bỏ học, tiểu học bỏ học từ 0,6-2,13%, con số không nhỏ. THCS bỏ từ 1,6-9,1%, THPT là 8,24-9,23%. Riêng bán công bỏ học lên đến 11,6-16,3%. Ở đây chúng ta sẽ thấy ảnh hưởng của chuyện đóng tiền và chất lượng GD tác động đến chuyện bỏ học như thế nào. Người ta tổng kết có năm nguyên nhân bỏ học: (1) kinh tế gia đình khó khăn; (2) cha mẹ không quan tâm; (3) quản lý của nhà trường kém, chưa tập trung bồi dưỡng HS yếu; (4) phối hợp giữa nhà trường và gia đình chưa chặt chẽ, thường xuyên; (5) HS thiếu chuyên cần, học lực kém. Tôi bổ sung thêm nguyên nhân thứ sáu là tình trạng tuyển dụng công nhân của các khu công nghiệp. Ở một huyện rất gần TP.HCM là Đức Hòa (Long An), HS THCS và THPT bây giờ chưa ra trường đã vào KCN. Đây là một trong những nguy cơ mất HS của ngành GD vì các em nghèo, không có tiền đi học mà lại rất dễ dàng được nhận vào làm. Đừng nói đến chuyện phổ cập THPT khi GD còn song hành với “công nghiệp hóa” kiểu này!
Cho nên nếu hỏi đến năm 2020 ĐBSCL có thể phổ cập THPT được không thì không ai dám trả lời “có”. Vậy chúng ta sẽ còn đi sau các nước đến mức nào nữa? Chuyện phổ cập GD là ưu việt của một chế độ, một xã hội, cho mọi người đều được đi học, tạo động lực cho phát triển kinh tế vì người dân có học sẽ tiếp thu khoa học kỹ thuật tốt hơn.
Nhìn từ góc độ văn hóa. Tăng học phí, phải rất cẩn thận! Nên trợ giá cho phổ cập giáo dục như từng làm với xe bus!
![]() |
Ông Huỳnh Như Phương, giảng viên trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM: “Chuyện tăng học phí phải hết sức cẩn thận!” |
Từ đầu buổi đến giờ, mọi người đã nhìn vấn đề học phí và chất lượng GD dưới nhiều góc độ, đến bây giờ ông Huỳnh Như Phương, giảng viên trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM mới tham gia. Bằng giọng nhỏ nhẹ và diễn cảm của một nhà giáo, ông đề cập đến vấn đề dưới góc độ văn hóa. “Tôi vừa được đọc hai bài báo hay, muốn chia sẻ với các anh chị.
Một bài là của bà Rosa - Maria Torres, chuyên viên cao cấp của UNICEF, có tựa đề “Thư ngỏ gửi trẻ em đến trường”. Bà ấy viết đại ý “các em đến trường lâu nay được thầy cô và nhà trường nói về bổn phận, còn ở đây tôi muốn nói đến quyền của các em” và nêu ra những quyền như không ai được quyền khinh rẻ em vì em nghèo, phân biệt em vì khác chủng tộc, phân biệt em vì khác tôn giáo... Tôi nghĩ các thầy cô nên đọc, rất cảm động.
Bài báo thứ hai là của một cô giáo và cũng là một phụ huynh, kể chuyện con mình mới vào lớp 1 đã bị cô giáo xé tập chỉ vì bao tập không đúng. Không những xé tập ba lần mà cô giáo còn chín lần cho điểm 4 môn tập viết. Người phụ huynh này tìm hiểu và bị sốc khi biết nguyên do là vì con mình không đăng ký học thêm.
Những chuyện như vậy thật đau lòng. Lúc đầu, khi nghe đề nghị tăng học phí, tôi nghĩ rằng cũng phải có lý do chính đáng người ta mới đề nghị như vậy. Tăng học phí có thể giúp tăng thu nhập cho GV. Công bằng mà nói, đời sống GV thuộc loại khó khăn nhất. Nếu tăng học phí như đề xuất của Sở GD-ĐT TP.HCM vừa rồi, bình quân mỗi GV được tăng 300 ngàn đồng. Nhưng nghĩ lại, nếu GV cũng là phụ huynh thì tiền tăng thêm đó chỉ đủ để đóng học phí tăng thêm cho con (nếu có hai con đi học). Nếu tính theo ngân sách TP.HCM thì nguồn thu tăng thêm đó không bằng tiền đang được dùng trợ giá cho xe bus.
Thế nên, theo tôi, phải nghĩ lại chuyện tăng học phí. Báo chí từng đăng câu chuyện, có một gia đình ở một tỉnh vùng sâu vùng xa không có tiền đóng học phí cho con, bèn ôm con chó đến trường để đóng thay học phí. Tôi nghĩ làm sao để tình cảnh đó đừng bao giờ xảy ra trên đất nước mình nữa. Và vì thế, chuyện tăng học phí phải hết sức cẩn thận!”.
Ông Nguyễn Văn Sơn rất tán thành ý kiến này và nói thêm: “Riêng về phổ cập GD, Nhà nước nên tài trợ. TP. HCM đã khuyến khích người dân đi xe bus bằng cách tài trợ cho hoạt động vận tải công cộng, vậy sao Nhà nước không tài trợ cho phổ cập GD được? Trường công nên được đầu tư, có GV chuẩn, miễn học phí, HS nào trong cấp học phổ cập này thi vào không đậu thì học trường tư, Nhà nước sẽ tài trợ cho các em một mức học phí hợp lý của trường tư. Người nào muốn cho con em học ở mức cao hơn thì bỏ thêm tiền. Riêng bậc THPT chưa được phổ cập thì mới phải đóng học phí.
Tôi đã đi khắp các tỉnh ĐBSCL, thấy rằng ở nhiều nơi học không đóng tiền mà HS còn không đi nữa kìa, và không hẳn cứ người dân giàu là sẽ đóng tiền cho con đi học đâu! Các vùng như Tây Nguyên, Đông Bắc, Tây Bắc càng tệ hơn. Vậy nên đừng lấy TP.HCM, Hà Nội... để đánh giá tình trạng chung của cả nước. Chuyện miễn phí cho bậc phổ cập là cần thiết, tôi không đồng ý việc tăng học phí.
Gốc rễ của vấn đề là sự “đóng khung” của nền giáo dục. Không thể đem tư duy cũ áp dụng vào giáo dục!
![]() |
Ông Phan Chánh Dưỡng - giảng viên chương trình Fulbright: “Kiến thức ở trong trường cung cấp chỉ là công cụ, phương tiện để đào tạo một hệ tư duy mới” |
Cuộc tọa đàm đã sắp kết thúc mà ông Phan Chánh Dưỡng - một chuyên viên kinh tế luôn đưa ra những suy nghĩ và lập luận rất hình tượng, người đang giảng dạy cho chương trình uy tín Fulbright - vẫn chưa hề lên tiếng. Khi được “thúc ép”, ông mới chậm rãi: “Với cơ chế GD đóng khung như hiện nay, thì có bàn tính chuyện tăng học phí hay không, nâng cao chất lượng thế nào… cũng không giải quyết được gì”.
Ông đưa ra hình tượng: Mình chỉ biết chơi đàn cò, mà lại muốn tham gia dàn nhạc giao hưởng, nhưng không chịu học violon để chơi, thế là để đàn cò lên cổ mà kéo thôi. Cho nên dù có để đàn cò bên tay phải hay tay trái của cái cổ thì cũng đâu thể chơi như kéo đàn violon được! Mọi người cười sảng khoái trước sự ví von độc đáo đó. Ông nói tiếp:
- Tình trạng GD hiện nay, như anh Nguyễn Văn Sơn nói, ở góc độ nào đó đang mất đi tính truyền thống. Phải nhìn thấy thế giới đang đi từ nền văn minh phân tích sang văn minh tổng hợp, nên không thể dừng ở môn học phân tích được nữa mà phải đi vào tích hợp. Phải làm lại, viết sách lại! Học không phải chỉ để có kiến thức, bởi người học không mang kiến thức đi bán sau khi tốt nghiệp ĐH! Dù có học bao nhiêu đi nữa thì khi ra trường vẫn sẽ lạc hậu, vì tiến bộ của loài người là quá nhanh. Những kiến thức ở trong trường cung cấp chỉ là công cụ, phương tiện để đào tạo một hệ tư duy mới. Đó là thực phẩm để chế biến một dĩa thức ăn, nhưng mục đích GD là đào tạo một ông đầu bếp, chứ không phải đem dĩa thức ăn đi bán.
Giáo dục hiện nay, theo ông Dưỡng, phải nằm ở một tầm cao hơn: “Tôi cho rằng GD có ba tầng. Tầng thứ nhất là thầy-trò trao đổi thông tin, tầng thứ hai là biến thông tin thành những sản phẩm mới, tức vừa học vừa hành, nhưng dừng ở đó cũng lạc hậu! Tầng thứ ba là trong quá trình đó, chúng ta đào tạo được người có tư duy, một ông đầu bếp, bởi khi ổng “vào đời” thì thịt trâu có thể không còn, chỉ có loại thịt khác, củ cải cũng không còn, chỉ có loại rau khác, dao xắt cũng cũ rồi, không còn cố định nữa... Do vậy môn học đưa vào phải được lựa chọn theo yêu cầu phát triển của cái mới, học cho tương lai.
Xã hội văn minh, phát triển và thông tin phong phú như hiện nay là điều tốt nhưng mặt trái là làm xói mòn truyền thống gia đình. GD gia đình giữ một vai trò quan trọng trong xã hội trước đây, xã hội văn minh nông nghiệp, còn trong xã hội công nghiệp, hội nhập hôm nay, con cái chúng ta học ngoài đời nhiều hơn trong gia đình. Tivi và Internet cho chúng biết tất cả, hơn hẳn chuyện ông già bảo “con ơi, phải thế này, thế kia”. Trước tình hình đó, chúng ta phải nghĩ ra cách GD mới, đừng ngồi thương tiếc hay nghĩ cách kéo lại quá khứ. Đây là những sự kiện đang diễn ra, nên không thể đem tư duy GD cũ để xử lý như kiểu GD hiện nay.
Chẳng hạn như môn sinh học, trước đây chúng ta học hệ tiêu hóa con heo, con cá... riêng rẽ thì được. Bây giờ phải học kiểu khác! Vì sao cũng là “cá” mà cá voi không thở bằng mang mà thở bằng mũi? Nó sống dưới nước nhưng là động vật có vú nên thở bằng mũi. Con gì có mỏ thì không có răng, mà có răng thì không có mề… Vậy phải giáo dục HS theo kiểu nhận dạng một vấn đề sẽ nhìn ra mọi vấn đề! Những bài toán có giá trị trong thế kỷ trước, bây giờ có cần không? Không! Thời nay, chỉ cần học về tư duy, chuyện tính toán sin, cosin này nọ đã có máy tính làm thay rồi.
Giáo dục hiện nay là cũ và lẩn quẩn, chỉ khổ cho thầy, trò và những người chịu trách nhiệm về GD đang bị đóng khung vào đó. Chế độ thi cử như vậy thì anh phải dạy và học vậy thôi. Vào Harvard có cần phải thi cử đâu? Họ chọn anh để đi học. Tôi dạy cho chương trình Fulbright chẳng cần bài giảng, giáo án, chỉ nhìn vào học viên mà dạy, họ cần cái gì tôi dạy cái đó, chẳng theo sách nào cả. Fulbright chấp nhận cho tôi dạy như thế, 5-6 năm rồi mà họ chưa… đuổi tôi, thì chắc là dạy như thế cũng được.
Dù ông Dưỡng cho rằng ý kiến của mình là “hơi đi ra ngoài vấn đề tăng học phí và chất lượng” đang bàn, nhưng ai cũng hiểu, những điều ông vừa nói mới thực sự là gốc rễ của vấn đề GD hiện nay. “Góp sức để “xới” ra được giải pháp nào đó cho ngành giáo dục” là mục đích của cuộc tọa đàm này và với những gì các vị khách mời đã thể hiện, có thể nói, cuộc tọa đàm đã làm được phần nào điều đó.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận