Hơn mười năm nay, năm nào người phụ nữ này cũng về Việt Nam vài tháng, hành trang mang theo là những dự án xóa đói giảm nghèo. Những dự án ấy cũng nho nhỏ như mong ước của bà, góp phần cải thiện cuộc sống cho người nông dân ở những vùng còn nhiều khó khăn. Cũng nhờ những dự án nho nhỏ như vậy mà bà có dịp đi khắp mọi miền đất nước. Với bà, có lẽ đó là phần thưởng lớn nhất cho những nỗ lực không mệt mỏi.
![]() |
Tranh: Hoàng Tường |
Thế nhưng, có lẽ chưa nhiều người biết nhà khoa học Việt kiều này lại xuất thân từ một gia đình cách mạng. Bà kể:
- Tôi xuất thân từ một gia đình cách mạng. Nhà tôi là một địa điểm tụ họp của nhiều cán bộ hoạt động thành. Năm 1959, khi tôi lên năm thì cha tôi bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt, giam ở khám Chí Hòa. Năm 1961, khi ông vừa được thả thì đến lượt mẹ tôi bị bắt. Vậy nên, việc tôi đi theo con đường của cha mẹ mình âu cũng là một lẽ tự nhiên.
Thêm nữa, hồi nhỏ, lũ con nít chúng tôi thường bị người lớn mắng là ngu, là hư mỗi khi làm sai. Bị mắng riết rồi tôi nghĩ có khi mình ngu thiệt. Tôi tin chỉ có đi theo cách mạng mới khiến mình bớt ngu. Hồi đó mình mới 14 tuổi nên suy nghĩ vẫn còn con nít lắm.
Năm 1968, sau khi cha tôi bị bắt lần thứ hai thì tôi nằng nặc xin vô chiến khu. Lý do là sợ đất nước thống nhất trước khi mình kịp tham gia cách mạng. Trải qua ba tháng huấn luyện ở đội Biệt Động Võ Trang Tuyên Truyền tại Ba Thu, tôi tiếp tục lên “R” tham gia kháng chiến. Nhờ vốn chữ nghĩa tích lũy sau bảy năm học trường Tây (St Paul), tôi được giao nhiệm vụ làm thư ký cho ông Lưu Hữu Phước (nguyên Bộ trưởng Bộ Văn hóa của Chính phủ Cách mạng lâm thời, 1969-1975).
Đến năm 1971, tôi vượt Trường Sơn ra Bắc theo chương trình “Gieo hạt giống đỏ” dành cho con em cán bộ cách mạng. Mục tiêu của chương trình này là đào tạo lực lượng, sẵn sàng quay trở lại miền Nam làm việc khi đất nước thống nhất. Sinh thời, ba tôi luôn nói tôi phải học thiệt giỏi. Học không phải để làm giàu, mà để phục vụ cách mạng. Tháng 5/1975, tôi tốt nghiệp lớp 10, rồi đậu đại học với số điểm khá cao, đủ để được Nhà nước cử sang Hungary du học về nông nghiệp.
* Bà có thích ngành học này không?
- Không. Tôi rất phiền khi Đảng phân công như vậy. Tôi cũng chỉ biết giữ ở trong lòng. Nếu phản kháng thì sẽ không được đi du học.
* Thời kỳ bà đi học cũng chính là giai đoạn đất nước bộn bề khó khăn. Phải chăng đó là lý do giữ chân bà ở lại Hungary?
- Thời sinh viên, tôi yêu một người Hungary là bạn học cùng lớp. Năm 1982, sau khi tốt nghiệp đại học, chúng tôi kết hôn. Ngày ấy gia đình tôi ở Việt Nam tương đối khá giả về kinh tế. Thuyền theo lái, gái theo chồng. Cuộc sống ở nước ngoài dễ thở hơn ở Việt Nam nhưng hai vợ chồng đều làm khoa học nên cuộc sống cũng không dư giả gì. Dành dụm mãi mới mua được một căn nhà, rồi chăm sóc cho các con của mình, vừa tranh thủ học lên nữa. Năm 1996, sau khi hoàn thành luận án tiến sĩ về thủy cầm, tôi mới có dịp về thăm lại quê hương.
* Cảm giác của bà thế nào sau hơn hai mươi năm xa quê hương?
- Lần trở về đó đã cho tôi một cái nhìn cận cảnh về thực tiễn đất nước. Cảm giác ban đầu là sốc. Tệ nạn nhan nhản. Trong xã hội xuất hiện xu hướng tiêu dùng kệch cỡm do sự hình thành của một bộ phận người vừa mới có tí tiền, trong đó có cả những người làm việc trong các cơ quan nhà nước. Về nông thôn thì vẫn còn những người nông dân mặc áo rách, làm việc cật lực nhưng vẫn thiếu ăn như thời kỳ tôi học tập ở miền Bắc.
Trong chuyến công tác về miền Tây, gặp gỡ các chuyên gia nước ngoài đang làm việc trong những dự án xóa đói giảm nghèo, suy nghĩ của tôi bắt đầu thay đổi, bớt tiêu cực hơn. Tôi tâm niệm mình phải làm một cái gì đó cho những người nghèo, mặc dù tôi chưa biết mình sẽ phải làm gì. Người nước ngoài còn đến Việt Nam làm việc được, thì mình cũng sẽ làm được. Rồi cơ hội cũng đến.
Năm 1996, sau khi chuyển công tác sang một cơ quan chuyên nghiên cứu về chăn nuôi gia súc nhỏ, tôi đề xuất với sếp của tôi dự án phát triển đàn gà Hungary nuôi chăn thả ở Việt Nam. Nếu thành công, việc này không chỉ tạo ra thêm một kênh tiếp xúc với Việt Nam, mà còn là một đề tài nghiên cứu khoa học. Tức là thử nghiệm khả năng sống sót của gà Hungary ở một môi trường mới.
Sếp của tôi là TS Szalay Istvan đồng ý liền. Thời điểm đó, Hungary cũng vừa mới tách ra khỏi khối xã hội chủ nghĩa, nên cũng còn khá nhiều khó khăn, không có tiền tài trợ cho các dự án nghiên cứu khoa học ở nước ngoài. Vậy là tôi quay lại Việt Nam lần thứ hai, mang theo những thùng trứng giống và tổ chức một hội thảo Việt - Hungary về phát triển chăn nuôi gia súc nhỏ. Đơn vị thực hiện việc nuôi thử nghiệm là Trung tâm giống gia cầm Thụy Phương, Hà Nội.
* Con gà là một loài vật nuôi quen thuộc với người nông dân Việt Nam hàng ngàn năm nay. Tại sao bà lại chọn giống gà sao?
- Gà sao vốn là một loại chim rừng, có nguồn gốc ở châu Phi. Những năm đầu thế kỷ XX, gà sao Pháp theo chân những đoàn quân viễn chinh sang Việt Nam, nhưng chúng được người ta nuôi như một loại gà kiểng. Gà sao không cho nhiều trứng như gà công nghiệp, nhưng thịt rất ngon, giá trị kinh tế cao. Gà sao Hungary được nuôi theo kiểu thả rông nên sức đề kháng rất tốt.
Khi tôi đến thăm một trại gà ở Thái Nguyên sau đợt cúm năm 2008, ông chủ trại gà này cho biết các giống gà khác của ông ấy đều chết hết, duy có đàn gà sao vẫn còn nguyên vẹn. Ở nông thôn, các hộ gia đình đều nuôi vài ba chục con gà. Với quy mô như vậy thì không cần phải xây dựng chuồng trại, kỹ thuật chăn nuôi lại đơn giản… nên người nông dân bớt được chi phí, thời gian và công sức. Nhờ vậy mà công tác khuyến nông cũng thuận lợi hơn.
Có một thực tế là Việt Nam hiện nay đang phải đối mặt với tình trạng di dân từ nông thôn về các vùng đô thị, đối tượng chủ yếu là những người đang ở độ tuổi lao động. Việc này không chỉ tạo ra những khoảng trống về lực lượng lao động ở nông thôn, mà còn tiềm ẩn một nguy cơ rất lớn: đó là sự mai một các giá trị văn hóa truyền thống. Vì vậy, muốn người nông dân bám đất giữ làng thì phải cải thiện cuộc sống của họ.
* Để người nông dân “bám đất giữ làng” mà chỉ trông vào đàn gà thì có quá… tham vọng không, thưa bà?
- Đúng vậy. Đến bây giờ tôi cũng chưa thấy gà sao xuất hiện trong các nhà hàng. Tôi quan niệm cuộc sống cũng như một hệ sinh thái, bên cạnh những cây lớn thì còn sợi rong, cọng rêu. Mỗi đối tượng đều có một vai trò riêng. Sau gà sao, tôi cũng đã phát triển thêm thỏ Hungary, gà lôi… tại miền Bắc.
* Nghe nói bà còn đưa gà sao sang cả Lào?
- Đây là dự án xóa đói giảm nghèo do Chính phủ Hungary tài trợ năm 2006. Tôi làm được việc này là có sự hỗ trợ nhiệt tình của Trung tâm giống gia cầm Thụy Phương. Lý do là với khoản kinh phí được cấp là 10 ngàn euro, Hungary không thể làm trực tiếp với Lào. Chuyển giao kỹ thuật xong, nếu có vướng mắc thì họ sẽ không biết hỏi ai. Không khéo thì trứng giống, gà giống sẽ thành trứng luộc, gà luộc hết.
Theo đề nghị của tôi, Bộ Nông nghiệp Lào đã gửi hai cán bộ sang đào tạo tại Trung tâm giống gia cầm Thụy Phương. Các anh chị ở trung tâm này rất chu đáo, thay vì giao gà con ở biên giới cho đại diện Lào ở biên giới, họ đã chạy thẳng đến thủ đô Vientiane, xem xét kỹ lưỡng khu vực nuôi thử nghiệm rồi mới yên tâm quay về.
* Là một nhà nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp, bà nghĩ thế nào về nông nghiệp, nông dân và nông thôn Việt Nam?
- Tôi cho rằng thiên nhiên trao cho Việt Nam một hệ sinh thái vô cùng giàu có, đủ điều kiện thiên nhiên phát triển một nền nông nghiệp vững mạnh, sung sức. Người nông dân Việt Nam chăm chỉ, không quản ngại khó khăn trong công việc chăn nuôi, đồng áng. Người nông dân Việt Nam phát huy các phong tục tập quán và truyền thống của mỗi địa phương.
Thực tế là nông thôn của chúng ta còn kém phát triển, cần được quan tâm hơn nữa. Một sự quan tâm đích thực mang lại kết quả đích thực trong cuộc sống hằng ngày. Chiến dịch này, khẩu hiệu kia chỉ có ý nghĩa khi cuộc sống của người nông dân đỡ cực khổ và nông thôn bớt nghèo. Hiện nay, để phát triển tất cả các ưu điểm đã nêu trên, điều cơ bản nhất mà chúng ta cần phát triển là dân trí. Đầu não có hoạt động được tốt thì đất nước Việt Nam có đầy đủ khả năng để trở thành một cường quốc về nông nghiệp.
* Nhưng liệu “cường quốc” như bà nói có thể đưa nước ta thoát ra khỏi cái nghèo?
- Chỉ dựa vào kinh tế nông nghiệp thì không có khả năng đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo đói. Hiển nhiên, muốn đất nước giàu mạnh phải phát triển một nền kinh tế toàn diện. Tuy nhiên, chúng ta không quên rằng đất nước ta là một nước nông nghiệp với 70% dân số là nông dân. Qua phát triển nông nghiệp, chúng ta nâng cao được đời sống của người nông dân. Có phát triển nông thôn thì người nông dân mới giàu lên được. Khi 70% nông dân Việt giàu thì nước Việt sẽ mạnh.
* Vẫn còn những lời phàn nàn về những thủ tục đối với các Việt kiều về nước làm việc. Với bà thì sao?
- Tôi thấy chẳng có vấn đề gì. Nhìn tổng thể thì đến giờ này, các dự án đều xuôi chèo mát mái. Thứ nhất, tôi có một nguyên tắc là không làm trực tiếp với các đối tượng được dự án hỗ trợ, mà thông qua đối tác tại địa phương. Thứ hai, có lẽ là vì tôi không với tới những gì quá cao, ngoài tầm tay, chỉ làm những gì vừa sức mình.
Những dự án đến được với người nghèo là nhờ sự tiếp sức của các đồng nghiệp đang làm việc tại các viện nghiên cứu, trường đại học… Có trường hợp tiền tài trợ chỉ có 1.000 euro nhưng mọi người vẫn nhiệt tình giúp đỡ vì họ biết nó có ý nghĩa với người nghèo.
* Nhìn tổng thể thì đến giờ này, các dự án của bà đều được triển khai ở khu vực phía Bắc. Liệu đó có phải là một sự ngẫu nhiên?
- Hiện tại, tôi đang triển khai một dự án đầu tiên ở khu vực phía Nam, thông qua hai đơn vị là Trường đại học Nông Lâm TP.HCM và Trường đại học Cần Thơ. Sở dĩ tôi làm ở miền Bắc vì anh Nguyễn Đặng Vang - Viện trưởng Viện Chăn nuôi, đơn vị quản lý Trung tâm Giống gia cầm Thụy Phương, là bạn học của tôi thời sinh viên.
Khi tôi chân ướt chân ráo về nước, còn nhiều bỡ ngỡ thì anh ấy là người nhiệt tình nhất giúp đỡ tôi. Thêm nữa, Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, còn tôi thì đi ngược chiều, kêu gọi “bám đất giữ làng”, ủng hộ hướng phát triển bền vững. Đây là trường phái hình thành từ đầu thập niên 1990.
* Phát triển bền vững đang là vấn đề đặt ra với các quốc gia trên thế giới. Bà suy nghĩ như thế nào về sự phát triển của Việt Nam, có bền vững hay không?
- Nếu so với Trung Quốc thì tôi thấy sự phát triển của Việt Nam bền vững hơn. Chẳng hạn, Trung Quốc đang hướng tới mục tiêu trở thành nhà cung cấp lớn nhất thế giới món gan ngỗng. Để có được nhiều gan ngỗng, người ta sẽ nhồi bắp vào con ngỗng trước khi đem đi mổ khoảng hai đến ba tuần lễ. Ngày đầu tiên, họ đưa cái ống vào họng con ngỗng, nong rộng ra rồi nhồi bắp vô hai lần. Ngày thứ hai, họ tăng lên bốn lần…
Tuần cuối cùng, cứ ba tiếng đồng hồ họ nhồi một lần. Bắp nhồi vào quá nhiều, dạ dày không tiêu hóa kịp, sẽ chuyển sang gan, khiến gan lớn lên. Đây là phương pháp các bà nội trợ phương Tây sử dụng hàng trăm năm nay để có món gan ngỗng vào các dịp lễ quan trọng hàng năm như Giáng sinh, Phục sinh…
Tuy nhiên, cách làm này bị các tổ chức bảo vệ động vật phản đối, thậm chí bị cấm tại nhiều quốc gia văn minh. Vả lại, cuộc sống hiện nay đã khá hơn, nên người ta cũng không đủ kiên nhẫn để làm công việc này. Đó chính là lý do khiến Trung Quốc đang gấp rút chuẩn bị để đẩy mạnh ngành này trong vòng hai năm tới.
Hiện nay, nhiều công ty thực phẩm lớn ở nước này đang chuẩn bị hệ thống chuồng trại với quy mô lớn. Giám đốc một công ty tham gia vào chương trình này khi mời tôi qua tham vấn đã tuyên bố mỗi tháng trang trại của ông ấy sẽ cung cấp khoảng 10 triệu ngỗng con. Khi được hỏi rằng lượng phân ngỗng thải ra sẽ xử lý thế nào thì ông ấy chỉ con sông gần đó. Tôi không biết con sông sẽ chịu đựng nổi bao lâu. Làm như vậy là tự đào huyệt chôn mình.
Bắc Kinh cũng vậy. Đường sá mở rộng, nhà cao tầng mọc lên san sát. Khách du lịch bây giờ cũng đã bắt đầu chán Bắc Kinh. Họ đến thành phố này đâu phải vì nhà cao tầng. Tôi rất sợ Việt Nam sẽ giẫm lên vết xe đổ. Năm 2004, tôi lên Sapa, ghé thăm chợ ngựa ở Mường Khương. Cảnh đẹp lắm, không tả nổi. Năm 2007, tôi quay trở lại thì cái chợ ấy la liệt hàng hóa Trung Quốc, còn bầy ngựa thì bị dồn lại một góc, dúm dó, rất tội nghiệp.
* Đòi hỏi người dân vùng cao cứ tiếp tục sống như cha ông của họ e rằng là không tưởng?
- Vấn đề không nằm ở chỗ họ xài hàng nội hay hàng ngoại. Ý tôi là cái chợ ngựa, cái nét văn hóa địa phương ấy đang bị xâm thực, bào mòn. Người dân tộc vùng cao hiện nay vẫn dùng ngựa để lưu thông. Nhưng chỉ sau ba năm, khi tôi quay trở lại thì bãi cột ngựa dễ thương kia không còn được màn sương mù của Mường Khương che phủ nữa, mà than ôi nó đã trở thành một bãi buôn hàng Trung Quốc rồi.
Những mặt hàng “chưa dùng đã hỏng”, những mặt hàng mà từ trên những phố phường sầm uất ở Brazil, hay trong một phiên chợ cuối tuần ở vùng núi Carpathes hoặc Nam Phi… đâu đâu tôi cũng bắt gặp những sản phẩm… “vô chất lượng”. Tôi chỉ sợ cứ cái đà này, rồi đây, thế hệ con cháu chúng ta sẽ không còn cơ hội tận hưởng những nét văn hóa như vậy nữa.
* Hơn mười năm nay, năm nào bà cũng về nước một vài tháng. Ông nhà không có ý kiến gì sao, thưa bà?
- Chồng tôi là giáo sư đại học, nhưng thường xuyên đi công tác nước ngoài. Còn các con tôi cũng đã trưởng thành và đều làm việc ở nước ngoài. Hơn mười năm làm dự án, tôi dành tất cả các ngày phép năm để đi cho hết đất nước mình. Hiện còn mỗi Côn Đảo là tôi chưa có dịp tới. Nơi tôi ở là một thành phố nhỏ, cách thủ đô Budapest 25 cây số nhưng chỉ có mình tôi là người Việt, nói được tiếng Việt. Cũng buồn.
* Kể cả các con của bà cũng không nói được tiếng Việt?
- Đó là điều khiến đến giờ tôi vẫn còn day dứt. Con gái lớn của tôi nói được sáu thứ tiếng, nhưng không nói được tiếng Việt. Con gái tôi hiện đang làm việc cho Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) ở Paris nhưng nó đang tìm một công việc phù hợp ở Việt Nam để học tiếng Việt. Con trai thứ hai của tôi thì vừa tốt nghiệp trường âm nhạc ở Berlin. Tháng 9 này, tôi cho cháu về nước để học tiếng Việt trong vòng một năm.
* Ở Hungary không có trường dạy tiếng Việt?
- Trước kia thì không. Một phần vì cộng đồng người Việt Nam ở Hungary không nhiều, chỉ có khoảng ba ngàn người. Tháng 6 vừa qua, Hội Doanh nhân Việt Nam ở Hungary đã tài trợ cho tôi và em gái tôi xây dựng một trung tâm dạy tiếng Việt cho trẻ em Việt và con lai Việt Nam ở Hungary. Chúng tôi đã tổ chức một trại hè lấy tên là Măng Non Đất Việt trong vòng một tuần lễ. Đây là dịp để chúng tôi “đo” nhu cầu, khả năng tiếp thu của các em.
Với các em, tiếng Việt cũng là một môn ngoại ngữ. Ở trường vốn đã phải học nhiều môn ngoại ngữ khác như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức v.v… nên để các em thích tiếng Việt, Măng Non Đất Việt phải tìm cách dạy cho các em học tiếng Việt như đang tham gia một trò chơi. Người Hungary nói rằng tiếng Việt mình phát âm như hát. Nhận xét này là một gợi ý cho người sáng lập trung tâm: Đỗ Như Phương Hồng, em gái của tôi.
Là một giáo sư dạy piano, Phương Hồng đã sáng tác những bài nhạc về các chữ cái, các thanh để các em học hát. Không ngờ các em học mau quá, giáo viên Măng Non Đất Việt nhiều khi phải lấy bài dự phòng cho buổi học sau ra để dạy. Kết quả là buổi tối, khi các em đi ngủ thì những người tham gia dạy phải ngồi lại với nhau để soạn giáo án dự phòng. Vui nhất là sau khi trại hè kết thúc, 15 em tham dự trại hè đều đòi phụ huynh cho đi trại hè tiếp.
* Có thể hiểu Măng Non Đất Việt sẽ không dạy tiếng Việt hằng ngày?
- Đúng vậy. Các em đều đi học trường Hungary. Cộng đồng người Việt ở Ba Lan đã tổ chức một trung tâm dạy tiếng Việt gần mười năm nay nhưng mỗi tuần cũng chỉ dạy được một buổi. Măng Non Đất Việt cũng cố gắng mỗi tuần dạy các em khoảng ba tiếng đồng hồ. Mục tiêu của chúng tôi là làm sao nuôi dưỡng được tiếng Việt, để các thế hệ tiếp theo nói được tiếng mẹ đẻ. “Tiếng Việt còn, nước Việt còn” cũng là mong muốn của cộng đồng người Việt ở Hungary.
* Xin cảm ơn bà về cuộc trò chuyện này.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận