Đầu đội mũ cối bộ đội, túi dết treo lủng lẳng phía trước chiếc xe đạp cà tàng, thầy lóc cóc đạp xe suốt gần 40km đường quê chỗ cát lún, chỗ gồ ghề đá sỏi để đến Cát Chánh (Phù Cát, Bình Định). Đến nơi chưa kịp lau mồ hôi ròng ròng trên mặt, thầy vừa cầm mũ quạt lia quạt lịa, vừa hỏi thăm tình hình ăn ở của từng sinh viên trong đoàn… Hình ảnh thầy Nhân trong đợt sưu tầm văn học dân gian năm ấy là như thế!
Đã 20 năm trôi qua tôi vẫn nhớ như in cảnh đêm trăng tròn giữa đồng quê Cát Chánh, gió mơn man thổi, trên sân nhà anh Chín (nơi thầy tá túc), gần 30 sinh viên quây tròn quanh thầy như cháu nghe bà kể chuyện cổ tích, truyền thuyết chợ Âm Dương, hòn đá Chém… của vùng quê này. Những kiến thức lặng im dưới lớp bụi xưa cũ trên những trang giáo trình bỗng được thầy đánh thức, sống động hẳn lên.
Những tên núi, tên sông quen thuộc bỗng như cựa mình cất tiếng, lung linh muôn sắc muôn màu trong cách nhìn mới, suy nghĩ mới của chúng tôi. Cách dạy văn học dân gian của thầy là thế, dạy trên thực địa, cho sinh viên như có thể “tay sờ, mắt thấy” những bằng chứng sống động của từng câu chuyện cổ tích, từng truyền thuyết ngày xưa. Với thầy, không có gì vui bằng khi thấy văn học dân gian đang sống trong lối ăn nói ngày thường của người dân. Một lần, hai thầy trò tôi gặp một bà lão mắng cháu nói dối: “Mày nói có chanh có bứa, nói có bông có hoa, có chổi chà chiếu manh…”.
Thầy thích thú cười bảo tôi: “Sinh động chưa! Các ông Xuân Diệu, Chế Lan Viên cũng học từ vốn này đây”. Những đợt sưu tầm văn học dân gian đối với chúng tôi là những tháng ngày ăn sâu vào ký ức, những viên gạch hồng tạo nền cho kiến thức. Thầy dạy chúng tôi cách sống ở đời, cách tôn trọng người dân, “đất có lề, quê có thói”, tỉ như vào nhà người ta, khi được mời ngồi phải biết nhường ghế cho người lớn, không được “ghế trên ngồi tót sỗ sàng”, vào mâm ăn chung nhẹ nhàng, đừng khua bát đũa tự nhiên như ở ký túc xá...
Lặn lội băng đồng hàng cây số dưới cái nắng như thiêu của trưa hè Bình Định, dẫn chúng tôi đến nhà một bà cụ già biết hát Lý vọng phu, Vè làm biếng… thầy dạy chúng tôi hiểu những niềm vui bình dị thể hiện trong một làn điệu dân ca, một câu ca dao mộc mạc mà tha thiết, tình tứ. Thái độ “uống nước nhớ nguồn” ấy thống nhất với quan điểm làm việc của thầy: “Văn chương không chỉ là chuyện của khoa học, của lý trí mà còn là chuyện của trái tim, của tình người”.
Đợt sưu tầm sắp kết thúc, thầy đề nghị cả đoàn sinh viên thực tập phối hợp biểu diễn văn nghệ dân gian cho dân xem (gọi là diễn báo cáo). Thầy đề xuất một chương trình rất thú vị: một phần là những tiết mục bài bản truyền thống như kịch “Sơn Tinh - Thủy Tinh”, “Có Tấm đi hội”, “Xã trưởng - Mẹ Đốp”… (trước đó, thầy đã hướng dẫn chúng tôi tập trong câu lạc bộ văn học dân gian tại trường, lấy diễn xuất “diễn viên” đánh giá điểm một học phần hẳn hoi vì “có hiểu tốt nỗi niềm người xưa mới diễn tốt”).
Một phần là những điệu múa, điệu hát của người dân địa phương hay những hài kịch mới biên sọan từ những câu chuyện cười mới sưu tầm được. Diễn cho bà con nông dân xem nhưng thầy không coi đơn thuần là “giải trí văn nghệ” mà yêu cầu rất cao: tập dợt diễn xuất đàng hoàng, áo quần, trang phục phải đúng vai, không được “phiên phiến”, phải cử người về Quy Nhơn mượn ở Nhà hát tuồng Đào Tấn, ở Đoàn dân ca kịch Bình Định (ngay cả trống cơm cũng phải làm đúng quy cách).
Thầy dặn đi dặn lại: “Các bạn đừng để người hầu ăn mặc sang hơn công chúa, hề đồng đẹp trai hơn hoàng tử nhé! Đừng quên là chúng ta diễn ở quê của ông Hậu Tổ hát tuồng Đào Tấn đấy. Người dân quê họ có những hiểu biết rất nghiêm về vốn cổ dân gian, khinh thường là hỏng việc”. Tôi hiểu thầy không chỉ nói chuyện biểu diễn, chuyện tôn trọng người xem, mà còn những ngụ ý sâu xa hơn nhiều trong lời dặn ấy!
Đêm diễn chia tay, người dân trong vùng rủ nhau đến xem rất đông, chúng tôi diễn mà xúc động đến nao người. Tất cả gặp nhau trong chất men say của văn hóa dân gian, một cảm xúc ngất ngây, lạ kỳ không bao giờ quên được…
Ai ngờ đường đời lắm nỗi gian nan. Ra trường vào một thời điểm đầy thử thách của ngành giáo dục, tôi thất nghiệp mất mấy năm, phải về quê chồng tần tảo sớm hôm làm đủ nghề kiếm sống, rồi cũng dần bình ổn, đôi lúc toan bỏ nghề theo nghiệp kinh doanh.
Song có lần, tình cờ lật một trang sách xưa như lại nghe văng vẳng bên tai lời thầy dặn ngày ra trường “Cái khó ló cái khôn, sướng khổ tùy tâm, con yêu văn chương thì phải biết vượt qua thử thách, mà ở đời thử thách lớn nhất chính là vượt qua chính mình”. Như được tiếp thêm sức mạnh, tôi tìm cơ hội trở lại ký hợp đồng làm cô giáo dạy văn ở một trường trung học vùng quê. Đôi lúc có dịp về trường cũ, ghé lại thăm thầy. Thầy vẫn như xưa, cười hiền bàn chuyện văn chương, nhưng trong câu chuyện vẫn không quên nhắn đôi lời an ủi, vỗ về đứa học trò nhỏ.
“Vi vu, vi vu… tất cả đều đi qua…”. Hình như có một truyện của Anđécxen đã viết như thế. Qua bao nhiêu bão dông cuộc đời, những kỷ niệm thầy cũ trường xưa tôi như đã lắng quên. Bẵng đi gần 20 năm sau, trên bục giảng đường một trường đại học phía Nam, nơi tôi dạy bộ môn văn hóa học, trong chồng sách do một dự án tặng trường, bất chợt tôi nhận ra một cái tên thân quen: sách “Cảng thị Nước Mặn và văn hóa cổ truyền” của nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Nhân.
Ôi! Sách của thầy tôi! Vội gọi điện hỏi bạn bè ngoài quê mới biết thì ra thầy về hưu đã lâu, già yếu lắm rồi nhưng vẫn cặm cụi sưu tầm, làm sách về văn học dân gian Tây Sơn, về truyện cổ Chàm, về nét đẹp của đất xưa người cũ... Tôi bật khóc, những giọt nước mắt nóng hổi bao nỗi niềm, vừa giận mình, vừa hối hận vì bấy lâu tôi như một kẻ vô tình bội bạc, vội sớm lãng quên bao ân tình của người thầy cũ.
Cuối năm ngoái tôi đã về thăm thầy. Hàn huyên chưa cạn đã chia tay, cầm bàn tay nhăn nheo của thầy, tôi nao nao xúc động không nói nên lời. Lòng tôi đinh ninh lời thầy dặn, rằng đã học văn, dạy văn, dù có thẩm thấu bao nhiêu cái hay cái đẹp của trường phái này, triết thuyết nọ nơi trời Âu đất Mỹ cũng phải truyền được cho học trò chất men say của văn hóa dân gian, cái cảm xúc ngất ngây, lạ kỳ không bao giờ quên được của một lời dân ca ta nghe thuở lọt lòng. Và tôi chợt nghĩ thầy như ông Bụt thuở nào trong truyện dân gian, luôn ẩn hiện trên đường đời, giúp bao lớp học trò vững bước đi…
* Bài viết về thầy Nguyễn Xuân Nhân, 77 tuổi, nguyên chủ nhiệm khoa ngữ văn Trường ĐH Sư phạm Quy Nhơn.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận