![]() |
Người tiêu dùng cần nâng cao ý thức tiết kiệm, thay đổi tập quán ăn uống, mua sắm, giải trí - Ảnh minh họa |
Giữa tháng 5 vừa qua, Giám đốc Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) ở vùng Vịnh là Mohsin Khan nhận định rằng không có lối ra cho các nước xuất khẩu dầu Trung Đông nếu không điều chuyển chính sách hiện hành lấy dầu thô đổi chất bột từ gạo, lúa mì, khi mà số tiền bỏ ra để nhập ngũ cốc năm 2008 lên đến 22,6 tỉ USD, tăng 40% so với năm 2007 và tăng 170% so với cách đây tám năm.
Do vậy, đối phó lạm phát hiện nay không thể thu hẹp trong từng lãnh thổ và từng quốc gia, cũng không thể sử dụng công cụ xử lý lạm phát gói ghém chỉ trong các hoạt động tiền tệ, lãi suất, tín dụng và quản lý ngoại hối. Điều quan trọng là phải tìm ra chính sách tiền tệ - lãi suất - ngoại hối chống lạm phát thỏa đáng mà lại không bào mòn sức mua của người tiêu dùng, vừa cân đối được nhu cầu chuyển đổi kinh tế (trong đó phải cân nhắc cắt giảm hay tiếp tục đầu tư vào cơ sở hạ tầng và các ngành kinh tế mũi nhọn; kìm giữ công xá hay nâng định mức lương tối thiểu; bao cấp hay điều tiết chính sách an sinh xã hội...).
Từ những thách thức đó, thiết nghĩ, trước khi vận dụng vào thực tế chống lạm phát ở Việt Nam, cần nhất quán xác định rõ căn nguyên của tình trạng lạm phát khá dai dẳng hiện nay.
Do đâu lạm phát dai dẳng?
Không phải lần đầu kinh tế Việt Nam chạm mặt với lạm phát cao và khá dai dẳng. Tuy nhiên, so với thời kỳ siêu lạm phát 1986-1989 (ước 300%) dẫn đến Nghị quyết 8 (liên quan đến giá-lương-tiền) thì lạm phát lần này không đơn thuần xuất phát từ “bệnh lớn tăng trưởng” (maladie de croissance) kinh tế trong nước, mà chịu sức ép “lưỡng đao”: sự phồng giá đầu vào ở quy mô toàn cầu rất khó dự báo hay kiểm soát; tác động cầu dẫn đến tình trạng mất cân đối nghiêm trọng khối lượng hàng hóa và dịch vụ với lượng tiền đồng và ngoại tệ trên thị trường.
Giới quan sát bên ngoài cho rằng thời gian qua Việt Nam tiến dần đến xã hội tiêu dùng do phồn vinh kinh tế có được từ quá trình đổi mới và đã giảm nhanh mức tiết kiệm cần có trên cơ sở kinh tế chuyển đổi. Riêng năm 2007, tổng mức tiêu dùng thông qua bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng 23,3% so với năm 2006 (trong khi tổng cầu ở nước Anh chỉ tăng 0,3% cùng thời gian). Bù trừ lạm phát, tổng cầu tăng 14%, xấp xỉ hai lần hơn mức tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Lẽ ra Việt Nam cần tiết kiệm nhiều hơn cho mục tiêu phát triển mở rộng, bảo vệ môi trường, cân đối trên một triệu nhân khẩu mới mà nền kinh tế phải cưu mang mỗi năm.
Bên cạnh đó, sau khi thoát khỏi khủng hoảng tài chính châu Á (1997-1998), từ năm 2005, Chính phủ triển khai kế hoạch phát triển kinh tế khá đồ sộ, hình thành Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (giống mô hình Sovereign Wealth Fund của ASEAN, Trung Quốc, Trung Đông, Bắc Âu...), đẩy đầu tư toàn xã hội bình quân 40%/GDP năm 2007 và dự kiến lên đến 43 - 45%/GDP vào năm nay nhằm tăng GDP lên 8,5 - 9% (mới đây đã điều chỉnh giảm). Cách làm đó không thể tránh được hiện tượng lượng cung tiền mỗi năm tăng nhanh (2005: tăng 23,34%; 2006: tăng 33,5%; 2007: tăng 40%). Đầu tư công thời kỳ 2005-2007 xấp xỉ 60% tổng đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
Thực ra, mức đầu tư này không mấy cách biệt so với tình hình đầu tư công trong khuôn khổ đổi mới kinh tế do Đại hội Đảng lần thứ VI (1986-1990) đề xướng. Tuy nhiên, mục tiêu và trọng điểm đầu tư công của hai thời kỳ khác nhau về nội dung. Đầu tư công 1986-1990 tập trung vào ba chương trình lớn là: nâng cao kim ngạch xuất khẩu lương thực - thực phẩm, chế biến hàng tiêu dùng thay nhập khẩu và tăng tốc hàng xuất khẩu. Lẽ ra, giữa hai thời kỳ cần có bước đệm, nhưng trái lại, các đại công trình phát triển hạ tầng đã đốt giai đoạn rót tiền vào khu vực đòi hỏi đầu tư dài hạn, chậm hoàn vốn. Chưa kể là hệ số ICOR của Việt Nam cao nên đầu tư kém hiệu quả (Đài Loan chỉ đầu tư khoảng 25%/GDP mà tăng được GDP bình quân 10 - 11% suốt một thập niên, đưa kinh tế của vùng lãnh thổ này cất cánh, trong khi Việt Nam đầu tư tới 40% GDP nhưng chỉ đạt 7,5 - 8%).
Trên thực tế, kinh tế Việt Nam ba năm gần đây tiếp nhận lượng cung tiền đồng và ngoại tệ cao gấp bốn, năm khối lượng hàng hóa, dịch vụ tăng trưởng. Tính riêng lượng cung tiền, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính đã tăng 135% phục vụ kế hoạch thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong khi giá trị hàng hóa và dịch vụ chỉ tăng 30% cùng kỳ.
Về mặt tín dụng, toàn bộ các ngân hàng quốc doanh và ngân hàng cổ phần cung ứng lượng tín dụng choáng ngợp: năm 2007 tăng 40% (năm 2005 tăng 32% và năm 2006 chỉ tăng 22%), đa phần không cho sản xuất trực tiếp, mà chảy vào nhà đất và chứng khoán. Mặt khác, ở Việt Nam có hai cơ chế tiền tệ song hành: muốn sử dụng hay chuyển hoán giữa tiền đồng và USD chính ngạch hay tiểu ngạch đều được (Bộ Tài chính đầu năm yêu cầu Ngân hàng Nhà nước đổi lượng khá lớn ngoại tệ dự trữ ra tiền đồng để chi... ngân sách)!
Sử dụng lạm phát như đòn bẩy chuyển đổi
Tương tác lạm phát - kinh tế khá giống quan hệ vừa chống lũ, vừa cần giữ lúa. Nếu lúa không thể tồn tại khi lũ cao thì kinh tế khó tăng trưởng và đời sống của đa số người tiêu dùng sẽ gặp khó khăn khi lạm phát hai con số kéo dài.
Gần đây, giới kinh - tài London đặt vấn đề: Chính phủ Anh có nên kìm giữ lạm phát “tối ưu” 2%/năm? Quan điểm “cách tân” coi yếu tố phồng giá đầu vào của nguyên nhiên liệu, lương thực, thực phẩm là khó tránh nổi và ngày càng mang tính toàn cầu hóa. Nếu đồng bằng Nam bộ buộc lòng sống chung với lũ thì kinh tế thế giới rồi đây cũng buộc phải cộng sinh với giá dầu thô 200 USD/thùng. Do vậy, việc Chính phủ mỗi năm tự đề xuất trần lạm phát được Quốc hội thông qua sẽ thành “lịch sử”. Cùng lúc, trường phái tiếp cận và xử lý lạm phát “cách tân” khẳng định Ngân hàng Nhà nước vô phương chống đỡ tình thế phồng giá đầu vào (nguyên liệu, vật tư, lương thực, thực phẩm nhập khẩu), lại phải gắng sức kìm tổng cầu trong nước, ghìm giá nội địa, hạ giá thành sản xuất bằng áp đặt qua mức lương tối thiểu thì khác gì phẫu thuật cắt đi tứ chi.
Ở đây xin không đặt vấn đề về hiệu quả của các biện pháp chống lạm phát hiện hành, vốn nặng tính tiền tệ - ngân hàng hơn là nối mạng kinh tế - xã hội, mà thử xem sử dụng lạm phát thấp hay trung bình để làm đòn bẩy tạo lực chuyển đổi cơ chế quản lý vĩ mô. Nhìn chung, Việt Nam có nhiều lợi thế để không những xử lý được tác động phồng giá đầu vào, mà còn tích lũy dài lâu nhờ có dầu khí, kim loại đen và kim loại màu, kể cả nguồn lương thực thực phẩm phong phú.
Để khắc phục sự khan hiếm lương thực, thực phẩm toàn cầu hiện nay, các nước sẽ mở rộng thu hút đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực nuôi trồng đánh bắt và chế biến. Báo Financial Time (London) không ngần ngại cho rằng “Food investment is not imperialism” (Đầu tư vào lương thực, thực phẩm không phải là chủ nghĩa đế quốc). Lý do là trang trại là tài sản cố định mà nhà đầu tư nước ngoài không thể chuyển lậu được nên chính phủ có thể trọn quyền sử dụng công cụ như hạn ngạch, thuế quan... để quản lý, bất kể chủ trang trại là ai.
Căn cứ vào điều kiện kinh tế-xã hội trong nước có cân nhắc kinh nghiệm bên ngoài, xin được khái quát khung vừa chống lạm phát, vừa sử dụng lạm phát có điều tiết như lực thúc đẩy chuyển đổi qua bảy yếu tố sau:
1.Ưu tiên hàng đầu vẫn là lành mạnh hóa tâm lý giới tiêu dùng, tránh tình trạng nhạy cảm với sốt giá do đầu cơ hay biến động giá giả tạo. Cơ chế một giá trên cả nước hay ít ra là từng ngành hàng cần nhanh chóng vận hành, có hậu kiểm của các tổ chức “canh giữ” như các cơ quan quản lý của Nhà nước, báo chí, hiệp hội nghề nghiệp.
2. Người tiêu dùng nâng cao ý thức tiết kiệm, thay đổi tập quán ăn uống, mua sắm, giải trí. Ở Anh và Mỹ nổi lên thành phần mua sắm có ý thức cao về giá, thay vì tiêu dùng hàng cao cấp, nhiều người chuyển sang hàng phổ thông, sản xuất tại chỗ.
3. Bản thân các doanh nghiệp cần cải tiến quy trình sản xuất - kinh doanh, cố gắng giảm giá thành. Từ khi lương thực, thực phẩm tăng giá, hiếm nhà hàng nào ở Anh dám nâng biểu giá lên cao vì sợ mất khách. Thay vào đó, họ rà soát quy trình nấu nướng để vừa tiết kiệm, vừa bảo vệ sức khỏe cho thực khách. Mặt khác, họ tái huấn luyện kỹ năng phục vụ khách cho từng nhân viên.
4. Tăng cường dịch vụ an sinh xã hội, nhất là y tế và giáo dục. Dành trợ cấp cho đúng đối tượng gặp khó khăn do lạm phát (chẳng hạn không thể bao cấp xăng dầu cào bằng giữa thành phần khá giả với công nhân viên có thu nhập thấp).
5. Giải phóng hệ thống bán lẻ. Mới đây Pháp cho phép mở siêu thị hoặc cửa hàng bách hóa với diện tích mặt bằng dưới 1.000m2 mà không cần sự cho phép của chính quyền địa phương.
6. Nhanh chóng vô hiệu hóa tác động phồng giá đầu vào quy trình sản xuất bằng chính sách mở rộng FDI, không nhằm khai thác tài nguyên thiên nhiên vô tội vạ mà bắt buộc hoàn thiện cơ sở sản xuất. Nên sớm đưa các dự án lọc dầu Dung Quất, Nghi Sơn vào sản xuất. Đầu tư công cần được cân đối hài hòa giữa trung và dài hạn, ưu tiên cho giao thông, liên lạc, năng lượng, thủy lợi, cảng biển và hàng không, giáo dục và y tế. Không vì lạm phát mà khóa “vòi” đầu tư thiết yếu của Chính phủ.
7. Hơn lúc nào hết, do lương thực, thực phẩm khan hiếm ở quy mô toàn cầu, nông nghiệp sẽ hút FDI mạnh. Mark Dundy (thuộc nhóm tư vấn nghiên cứu nông nghiệp quốc tế của Ngân hàng Thế giới) từ thập niên 1970 đã tìm kiếm giải pháp thu hút FDI để phát triển lương thực, thực phẩm đã cho rằng doanh nghiệp sản xuất lương thực, thực phẩm không thể làm ngơ trước những dự án đầu tư ở các nước có ưu thế về nông nghiệp thuộc châu Á và châu Phi. Chính phủ cần quan tâm sắp xếp nhằm hợp lý hóa và hữu hiệu hóa cơ chế quản lý sản xuất nông nghiệp. Ở Ethiopia, chính phủ vừa quyết định tự mở thị trường giao dịch nông phẩm, cá biệt là cà phê để kết nối nhà nông với thị trường quốc tế, giảm bớt sự lệ thuộc quá nhiều vào tầng nấc trung gian.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận