17/06/2004 00:01 GMT+7

Rồng nước dưới chân núi Ngỗng

LÊ TRƯỜNG
LÊ TRƯỜNG

TT - Lần theo con đường mòn chằng chịt những lối rẽ, đan dày gai dại, từ thôn Lương Tri chúng tôi ngược đường lên núi.

2tdhvEO3.jpgPhóng to
Từ một vùng khô khốc, núi Ngỗng nay đã xanh thẫm màu lá đầy sức sống - Ảnh: L.T.
TT - Lần theo con đường mòn chằng chịt những lối rẽ, đan dày gai dại, từ thôn Lương Tri chúng tôi ngược đường lên núi.

Trong suốt lộ trình, giữa nắng nóng đến gai người của những ngày cuối tháng năm, nghe già làng Thành Họa - người dẫn đường - kể chuyện làm thủy lợi của nông dân Đạo Văn Nũng- một người Chăm bản địa - chúng tôi cứ ngỡ mình đang lạc vào một thế giới cổ tích với những con người thật đã làm nên điều kỳ diệu cũng... rất thật.

“Cuộc chiến” 300 ngày

Già Họa bảo khoảng mười năm trước đây thôi, thung lũng núi Ngỗng (thôn Lương Tri, xã Nhơn Sơn, huyện miền núi Ninh Sơn, Ninh Thuận) vẫn còn heo hút lắm.

Đất thì mênh mông nhưng nước lại không có lấy một giọt. Nên dẫu là làng thuần nông nhưng người Chăm Lương Tri chẳng ai đủ can đảm thi gan với trời để trồng bất kỳ loại cây gì trên “tiểu vùng sa mạc” này dù chỉ để… mát mắt.

Thế rồi đến một ngày, mọi chuyện đã hoàn toàn đổi khác khi chàng thanh niên chân đất họ Đạo dám làm cuộc đánh cược táo bạo với sỏi đá…

Như một cơ duyên, cuối năm 1996, sau nhiều ngày khảo sát địa hình, Hai Nũng âm thầm tự thiết kế bản vẽ, chiết tính chi phí cho công trình thủy lợi vừa chớm nảy ra trong đầu mình.

Không biết nắm chắc mấy phần thắng mà anh nông dân người Chăm 32 tuổi với trình độ văn hóa chỉ mới hết cấp II gom hết vốn liếng của gia đình ngót nghét 50 triệu đồng quyết định bắt tay vào cuộc.

Lúc bấy giờ nhiều người nghe chuyện đã không ngần ngại bảo anh là… “khùng”. Ai đời lại mang bán cả sản nghiệp để làm chuyện công cốc kiểu “thay trời làm mưa” như thế bao giờ!

Vậy mà Hai Nũng vẫn lặng lẽ kêu công, thực hiện cho bằng được ý tưởng “khùng” nhưng... có cơ sở khoa học hẳn hoi của mình.

Nhớ lại thời điểm những ngày đầu “ra quân”, Nũng trầm ngâm: “Thật ra bà con cũng có lý.Bởi khoảng cách từ mương Cái tới khu vực dự tính đặt trạm đến hơn 500m chứ đâu có gần. Hơn nữa, do chênh lệch về độ cao hai nơi quá lớn nên mương dẫn phải đào sâu ít nhất 4-5m mới có thể đưa được nước vào. Mà giữa một vùng toàn đá là đá như thung lũng núi Ngỗng thì việc này chẳng dễ dàng gì...”.

Ngay số trai làng quần công cho Hai Nũng cũng đã không ít lần khuyên anh nên bỏ đi ý định trở thành “thần nước” vì không khéo sẽ trắng tay.

“Trắng tay thì không sợ lắm, nhưng bỏ cuộc coi như chấm hết” - Nũng nói vậy. Nũng cứ dựng lán trại ngay trên công trường để đốc quân.

Ròng rã hơn 10 tháng trời, nắng đào mưa nghỉ, từng mét từng mét một. Rồi thì đá bạc cũng đã phải bật gốc bởi sức vóc của đám trai làng, nhường chỗ cho một đường kênh thẳng tắp dẫn dài từ bờ mương Cái lên đến giữa vùng đồi gần chân núi.

Con kênh bắt đầu dài ra cũng là lúc Hai Nũng phải đối mặt với tiền bạc: số tiền 50 triệu đồng ban đầu không còn một xu! Phóng lao thì phải theo lao, Hai Nũng lại tiếp tục vay mượn thêm 50 triệu đồng để lắp đặt ống dẫn và hoàn thiện công đoạn cuối của công trình: xây bể chứa và trang bị bốn máy hút nước ngay tại trạm bơm.

Ngày Hai Nũng cho vận hành hệ thống bơm nước của mình, dân làng Lương Tri kéo đến xem như hội. Nhìn những chiếc máy bơm “khạc” nước ào ạt, trắng xóa, Hai Nũng vui. Cả làng vui.

lKtmXdnF.jpgPhóng to
Hai Nũng đang vận hành trạm bơm, chuẩn bị tưới - Ảnh: L.T.
Xanh hóa vùng sỏi đá

Ông Trần Xuân Hòa, nguyên giám đốc Sở Nông nghiệp - phát triển nông thôn Ninh Thuận, có lần nói với chúng tôi: thật ra bà con dân tộc Chăm vốn đã quen với việc làm thủy lợi tiểu điền trên vùng đất bán sơn địa. Nhưng dám… “xâm mình” để đánh cược với đá núi như Hai Nũng quả là dễ có mấy ai!

Không thán phục sao được bởi bất kỳ ai tận mắt nhìn thấy hệ thống thủy lợi của Hai Nũng đều phải ngỡ ngàng vì chuyện dẫn thủy nhập điền của anh đâu chỉ đơn thuần là khơi mạch, đào mương rồi bơm tưới như xưa nay nông dân vốn đã quen làm.

Chừng đoán được thắc mắc của chúng tôi vì sao cứ mỗi đoạn 700m trong hệ thống ống dẫn lại phải nối nhau bằng những bi cống (loại dùng để làm giếng - NV), Nũng giải thích: những chiếc giếng ngầm sẽ là chỗ chứa lý tưởng nhất cho bùn rác mỗi khi bơm nước. Khi muốn vệ sinh đường ống thì chỉ cần cắt nước từ nguồn mương và xuống nạo vét là xong.

Chưa đến một năm sau ngày con “rồng nước” của Đạo Văn Nũng lượn lờ dưới chân núi Ngỗng, màu trắng bạc của đất cằn sỏi đá nơi này đã phải nhường chỗ cho tấm thảm xanh của hàng chục hecta đồng lúa và hoa màu.

Hai Nũng không giấu giếm bảo đất ở đây màu mỡ lắm nên chỉ sau gần ba năm chịu khó cày sâu cuốc bẫm, hơn 2ha đất khoán đã mang về cho gia đình anh gần 70 triệu đồng từ cây thuốc lá và nho.

Chắt chiu trả được nợ cũ, rồi dành dụm cất nhà mới khang trang, đầy đủ tiện nghi, anh tính đến chuyện phát triển chăn nuôi, vỡ hoang mở rộng diện tích canh tác.

Đất không phụ người, giờ thì vợ chồng Hai Nũng đã là chủ nhân của trang trại thuốc lá hơn 3ha, có cả lò sấy theo qui trình sơ chế khép kín và gần 100 con dê, bò, cừu.

Với mô hình kinh tế “lấy cây nuôi con”, nguồn lợi mỗi năm gia đình anh thu về 60-70 triệu đồng là chuyện chẳng khó khăn gì.

Vậy là từ dạo ấy đến nay chẳng ai dám bảo Nũng là “khùng” nữa. Có nước tưới, đâu chỉ Hai Nũng “lột xác” mà hàng trăm người dân Lương Tri cũng từ đó đổi đời.

Ông Hán Mên, 64 tuổi, trong câu chuyện với chúng tôi cứ nhắc đi nhắc lại mãi nghĩa tình của vợ chồng Hai Nũng với dân làng.

“Bỏ ra cả gia tài để làm thủy lợi, chú ấy đâu chỉ làm lợi cho riêng bản thân. Gần 20ha đất màu của bà con trong thôn mấy năm nay cũng nhờ chú ấy tưới nhưng không tính toán thiệt hơn, chỉ nhận thù lao gọi là chi phí xăng dầu…. Như gia đình tôi chẳng hạn, nếu không nhờ Hai Nũng thì gần 5 sào thuốc lá đành phải bỏ hoang thôi…” - lão Mên nói.

Hàng chục hộ của thôn Lương Tri trước đây chỉ biết lên rừng chặt cây hầm than kiếm sống qua ngày, nhưng từ lúc có nước của Hai Nũng về, tất cả đã quay về bám đất, bám đồng.

Chỉ cho chúng tôi xem hàng đống gạch, đá, cát, sỏi... đã được tập kết rải rác dưới chân núi, Hai Nũng cho biết sẽ tiếp tục xây hệ thống mương nổi khoảng 500m trải đều khắp vùng đồi, đồng thời đưa bể chứa nước tại trạm bơm lên cao ít nhất 15m để có thể tưới cho số diện tích hơn 20 ha còn lại ở khu vực này.

“Đợt hạn vừa rồi (kéo dài gần bốn tháng ở hầu hết địa phương trong huyện - NV) dữ dội vậy nhưng tụi tui đâu thiếu giọt nước nào. Đất màu mỡ thế kia mà bỏ hoang thì phí lắm!”...

_____________________________________________________

Hãy tham dự Cuộc thi viết phóng sự - ký sự báo Tuổi Trẻ 2004

LÊ TRƯỜNG
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên