19/09/2004 05:01 GMT+7

Những nạn nhân không rõ mặt

DUYÊN TRƯỜNG
DUYÊN TRƯỜNG

TTCN - Cuộc trò chuyện của chúng tôi diễn ra trong căn nhà nhỏ của chị. Chị là tác giả luận văn cao học có tựa đề: “Cựu chiến binh (Mỹ trong chiến tranh) Việt Nam và quá trình (tự) hàn gắn vết thương chiến tranh” được trình tại đại học Kansas (Mỹ).

f0Xk9A6J.jpgPhóng to
TTCN - Cuộc trò chuyện của chúng tôi diễn ra trong căn nhà nhỏ của chị. Chị là tác giả luận văn cao học có tựa đề: “Cựu chiến binh (Mỹ trong chiến tranh) Việt Nam và quá trình (tự) hàn gắn vết thương chiến tranh” được trình tại đại học Kansas (Mỹ).

Một cuộc trò chuyện đúng dịp vụ kiện chất độc da cam, cho phép đặt câu hỏi: tổn thương tinh thần là như thế, còn tổn thương cả thân xác lẫn tinh thần?

Những người đàn ông ở Kansas

Chị có thể cho một phác thảo chân dung qua vài con số? Các nhân vật trong đề tài nghiên cứu của chị?

- Cụ thể là mười người. Thật ra là 10+1. Có một người đang là tù nhân, do bị stress quá nặng nên đã từ chối tiếp tục sau một thời gian cộng tác.

Trong mười người lính đánh trận ấy, có một người da đen, hai người da đỏ, bảy người da trắng. Tuổi xấp xỉ 60. Hầu hết đã qua ĐH, thậm chí có đến bảy thạc sĩ. Có hai người là nhà thơ. Có hai người là tù nhân.

Hồi chiến tranh VN, bảy người là lính tình nguyện, ba người bị đi quân dịch. Cấp bậc đều thấp, trong số mười người có bốn người mang một chứng bệnh mà bây giờ người Mỹ gọi là “rối loạn tâm thần hậu thảm kịch”. Tất cả đều đang sống tại tiểu bang Kansas...

Thật ra, mỗi người chỉ đại diện cho chính bản thân họ, chứ không đại diện cho thế hệ của mình. Thẩy đều là đàn ông.

Cựu chiến binh Mỹ trong chiến tranh VN:

- Khoảng 1 - 1,6 triệu người trực tiếp chiến đấu hoặc có nếm mùi súng đạn

- 150.000 người đã tự tử

- 500.000-700.000 người bị mắc căn bệnh “rối loạn tâm thần hậu thảm kịch”.

Tại sao không có phụ nữ?

- Chúng tôi không tìm được, đa số phụ nữ đều làm quân y hoặc hành chính, không trực tiếp chiến đấu...

Chúng tôi muốn nghiên cứu những người lính trực tiếp chiến đấu trên chiến trường Việt Nam bởi vì họ chính là nạn nhân trực tiếp của chiến tranh.

Thật ra, đối tượng của đề tài có liên quan đến phương pháp nghiên cứu. Đó là phương pháp sử truyền khẩu (oral history).

Khác với phương pháp sử chính thống, ở đây tôi nghiên cứu những con người bình thường, những con người không ai biết đến, những con người ở tầng lớp bên dưới bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp và khai thác các tư liệu cá nhân của họ (như thư từ, nhật ký, hình ảnh, vật dụng...), nghĩa là từ dưới lên.

Khi đi vào tìm kiếm những “ngõ ngách” của con người và xã hội, sử truyền khẩu không làm nhiệm vụ khái quát hóa lịch sử, nó bổ sung cho sử chính thống những gì mà sử chính thống đã bỏ qua, những gì mà sử chính thống không bao quát được hết!

Thạc sĩ Lê Thị Thu Hằng, 33 tuổi, nguyên phó trưởng khoa ngoại ngữ, hiện là trưởng khoa quan hệ quốc tế ĐH Ngoại ngữ - tin học TP.HCM (Huflit).

Tháng 5-2004 lấy bằng thạc sĩ, ngành Hoa Kỳ học, tại ĐH Kansas (Hoa Kỳ):

Tôi cho rằng chính những cựu chiến binh Mỹ cũng là nạn nhân chiến tranh - những nạn nhân không rõ mặt. Khi nói về nạn nhân chiến tranh, người ta thường chỉ nghĩ đến những nạn nhân của những nước bị tấn công: những người bị chết, những người bị thương...

Khi người Mỹ tấn công VN, nhiều người lính Mỹ trở về “nguyên vẹn” nhưng tâm hồn của họ đã bị tổn thương rất nặng.

Đề tài của tôi là một cách để cho nước Mỹ thấy rõ hậu quả chiến tranh không chỉ có ở nước bị tấn công mà ngay cả nước đi xâm lược cũng phải gánh lấy những thảm họa không tránh khỏi. Điều đó có ý nghĩa là: phải ngăn chặn chiến tranh!

Nhưng làm sao chị biết được “những người không ai biết đến” đó?

- Bắt đầu từ một người. Rồi sau đó, nhờ truyền miệng, người ta lần lượt giới thiệu cho tôi những cựu chiến binh khác.

Bắt đầu từ một người?

- Đúng hơn, bắt đầu từ một sự xúc động...

Đó là một cựu chiến binh thủy quân lục chiến Mỹ đã từng chiến đấu ở Khe Sanh, ba lần bị thương, trước sau phải trải qua 22 lần phẫu thuật, nay đi lại phải dùng nạng.

Ông tên là John Musgrave. Khi tới lớp chúng tôi học, ông ngồi kể chuyện và mở đầu câu chuyện rất hay, vì ông ấy là một nhà thơ.

“Khi bạn ở vào thời của tôi, nếu bạn là một thanh niên 18 tuổi và bạn có ý thức thì bạn biết rằng bạn đang nợ đất nước mình một nghĩa vụ: phải phục vụ đất nước!

Câu nói của tổng thống Kennedy: Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho anh mà phải hỏi anh đã làm gì cho Tổ quốc, đã khích lệ lòng yêu nước rất lớn trong thời gian đó. Thế hệ những người lớn lên trong thập niên 1960 thường là con cháu của những người tham gia Thế chiến thứ hai.

Người Mỹ rất tự hào về những người lính trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã đánh bại phát xít, đánh bại cái xấu. Nhưng khi qua Việt Nam, từ những gì đã chứng kiến tôi biết mình đã sai lầm.

Những người lính Mỹ ở đây là vô ích và lãng phí. Hơn nữa, đã hành động trái với đạo lý: giết hại dân lành, đốt làng phá xóm... Người ta bảo chúng tôi đi tiêu diệt cộng sản. Nhưng cộng sản ở đâu? Chúng tôi có câu: nếu người bị bắn chết là người VN, thì đó là cộng sản!

Bộ Quốc phòng Mỹ có chiến lược “đếm xác người”, không phân biệt phụ nữ hay trẻ em, chuyện thắng thua trong một trận đánh được xác định bằng con số xác chết! Cuộc chiến đấu ở đây trái với những gì chúng tôi từng nghĩ so với cuộc chiến đấu của cha ông ở châu Âu. Chúng tôi thấy mình đã bị lừa dối và phản bội...”.

Và sau khi từ VN trở về...

- Những người lính đó không còn ngây thơ như trước nữa, họ trở nên dè dặt, đa nghi. Họ không còn tuyệt đối tin tưởng vào chính phủ nữa, họ như có một thế giới quan khác, họ biết quan tâm đến các nước khác hơn, họ không còn đề cao chiến tranh một cách mù quáng, chung chung nữa...

Khi họ trở về, chính quyền không muốn nhìn thấy họ, muốn họ trốn đi chỗ khác, muốn quên họ đi, bởi vì khi nhìn thấy họ - những cựu chiến binh trong chiến tranh VN, Chính phủ Mỹ nhìn thấy sự thất bại của mình, một nỗi nhục mà người Mỹ không đủ can đảm để chấp nhận.

Nhưng cú sốc lớn nhất đối với họ chính là thái độ của người dân.

Lúc bấy giờ, khi phong trào phản chiến lên cao thì người dân Mỹ quay lại ngược đãi họ. Họ bị xa lánh, bị rẻ khinh, bị ghẻ lạnh, bị xem là những người tồi tệ, xấu xa, bị gọi là những “baby killer” (những kẻ giết trẻ em).

Ông John Musgrave có kể lại những chuyện đau lòng mà ông đã gặp. Trong thời gian ông ở VN, có một lần đơn vị ông nhận được một thùng hàng gửi đến từ hậu phương.

Lần đó, sau một trận đánh, đơn vị ông bị thua và mất rất nhiều quân, đang xuống tinh thần, mọi người liền mang thùng quà ra để hi vọng nhận được những tình cảm từ quê nhà và vui hơn một chút. Nhưng không ngờ, đó là thức ăn... của chó.

Và trong đó còn có câu: “Hãy ăn đi, đồ chó!”. Tất cả đều lặng đi và nỗi đau chìm vào bên trong không thể nào giải thích được và cũng không bao giờ quên được...

Một lần khác, khi ông ở Washington, lúc đó ông còn đang nằm viện. Một hôm, ông đi ra ngoài phố, chờ băng qua đường lúc đèn đỏ thì bắt gặp một cô gái trẻ. C

ảm giác của ông, lúc đó là một thanh niên tuổi 18, vừa từ chiến trường trở về gặp cô gái trẻ, nên rất phấn khích! Cô gái ấy nhìn ông chống nạng và đoán biết là người lính nên đã hỏi: Anh từ VN trở về? Anh bị thương ở bên đó? Ông gật đầu đáp phải. Và bất ngờ, cô ấy đã nói: Tôi ước gì anh chết ở bên đó còn hơn!

“Bấy giờ, tôi tự hỏi mình đi chiến đấu cho tự do của nước Mỹ, sao lại bị người Mỹ đối xử với mình như vậy? Và tôi đã bị sốc thật sự!”.

Vì vậy, nhiều người trong số họ đã mắc “hội chứng chiến tranh VN”?

- Người Mỹ không gọi như vậy nữa. Về chính trị, người ta không muốn nhắc đến chiến tranh VN. Về khoa học, nó không khái quát được hết...

Nên bây giờ, người ta dùng khái niệm “rối loạn tâm thần hậu thảm kịch”. Đó là những rối loạn sau khi người ta chứng kiến động đất, chứng kiến tai nạn hay người thân bị tai nạn, chứng kiến chết chóc, thảm sát...

Bốn trong số mười người mà chúng tôi nghiên cứu bị hội chứng này.

Tính khí thất thường, rất rụt rè khép kín, không thích sinh hoạt xã hội, xa lánh đám đông, thường xuyên thấy ác mộng, trí nhớ giảm sút, sợ bóng tối như trẻ con, nhạy cảm và dễ bị kích động khi gặp những hình ảnh liên tưởng đến quá khứ (tiếng động, súng ống, áo bà ba đen...) và hầu hết đều nghiện rượu. Hai nhân vật trong đề tài bị giam giữ trong tù vì những hành vi phạm pháp do nghiện rượu.

c9UUGaDb.jpgPhóng to
Các nhân vật trong đề tài (từ trái qua): ông Curtis Bennett (thứ ba), ông John Musgrave (thứ tư), ông Mike Clodfelter (thứ năm), ông Jesse Newman (thứ sáu) và Thu Hằng
Hàn gắn vết thương

Có cách nào để những con người bị tổn thương ấy chữa lành vết thương chiến tranh của bản thân?

- Một trong những cách đó là viết. Vì họ không nói được nên họ viết: viết hồi ký, làm thơ, viết văn, viết sách...

Có một nhân vật, mà tôi gọi là nhà thơ mặc dù thơ của ông chưa hề được xuất bản. Ông tên là Curtis Bennett, làm thơ ngay từ ngày thứ hai đặt chân đến VN.

Đến lúc chúng tôi phỏng vấn ông, ông trao cho tôi một tập thơ thì tập thơ đã dày đến 500 trang. Tất cả đều viết về chiến tranh VN.

Thơ rất hay nhưng không đem xuất bản, cũng chưa đưa cho ai đọc ngoài vợ và một vài người bạn thân. Thơ ông giống như hồi ký, như một thứ nhật ký bằng thơ...

Một người khác, sau này trở thành một nhà sử học. Đó là Mike Clodfelter. Sau khi trở về, ông đi học và lấy bằng thạc sĩ sử học, ông xin vào làm việc ở Cục Lưu trữ quốc gia ở Washington.

Nhưng do ông đã từng tham gia phong trào phản chiến, đã có lần biểu tình (vào tháng 4-1971), để ném mề đay (huy chương) vào Nhà Trắng, vào tòa nhà Quốc hội Mỹ nên đã bị bắt, sau đó được thả ra, nhưng vì lý do đó, bây giờ người ta từ chối cho ông làm việc tại Cục Lưu trữ.

Ông bèn quay về ĐH Kansas, xin làm bảo vệ, và trong thời gian đó vừa làm bảo vệ, vừa đọc sách, vừa viết sách, viết hồi ký...

Lần đầu (vào năm 1976) ông viết một cuốn hồi ký, bao nhiêu bực bội tức giận ông trút ra hết vào đấy, và ông đã nói không chừa một cái gì hết.

Sau này bình tĩnh lại, qua thời gian, ông thấy mình lúc đó không kiềm chế, nên đã viết lại cuốn hồi ký thứ hai (1988).

Như vậy, ông có đến hai cuốn hồi ký. Ông đã viết bốn cuốn sách về lịch sử (về chiến tranh VN, về Chiến tranh thế giới thứ hai...).

Trong số mười nhân vật, ông Mike Clodfelter là người duy nhất đã quay lại thăm VN, đến hai lần, trong đó có đi thăm lại nơi ông đã từng “đụng trận” (Qui Nhơn).

Như vậy, trở lại thăm VN cũng là một quá trình hàn gắn vết thương chiến tranh của người cựu binh Mỹ?

- Đó cũng là một cách! Trở lại VN, họ mang theo tâm trạng ăn năn, băn khoăn, day dứt về những điều đã làm trước đây, họ không biết người VN sẽ đối xử với họ như thế nào.

Đến khi họ được đối đãi ân cần, tử tế, họ đã nhẹ lòng đi rất nhiều. Và họ thấy rằng người dân VN rất vị tha, sẵn sàng bỏ đi thù hằn trong quá khứ.

Thưa chị, còn cách nào nữa không?

- Tham gia phong trào phản chiến! Khi tham gia phong trào phản chiến, họ được nói lên sự thật về những gì mà công chúng Mỹ không biết.

Một cách nữa là tham gia Hội Cựu chiến binh, nơi mà họ có thể tâm sự, chia sẻ được với những người đã biết VN là gì, chiến tranh là gì?

Cần biết rằng những người này đa số đều không tâm sự được với gia đình, với bạn bè. Trong mười người mà tôi phỏng vấn, có đến tám người phải ly dị vợ...

Và còn một cách nữa là các cựu binh Mỹ tham gia các tổ chức gây quĩ giúp đỡ nạn nhân chiến tranh của VN và của Mỹ, chẳng hạn như giúp đỡ các cựu binh và con em bị nhiễm chất độc màu da cam...

Gửi người đã bắn tôi

PYt1XnBQ.jpgPhóng to
John Musgrave tham gia phản chiến tại Mỹ
Ông John Musgrave kể lại, trong lần bị thương thứ ba, khi ông vừa bị thương thì được một đồng đội đến cứu, người này bị bắn chết.

Đồng đội thứ hai của ông khi chạy ra cứu ông và khiêng xác người bạn kia cũng bị bắn chết! John từ đó mang một mặc cảm tội lỗi: vì mình mà hai người bạn phải chết, mình vẫn còn sống trong khi đáng ra người phải chết chính là mình!

Và ông đã đặt tên hai người bạn ấy cho hai đứa con trai của mình. Ông có làm một bài thơ tựa đề Gửi người đã bắn tôi (đây cũng là tựa đề của một tập thơ của ông).

Số là sau khi người đồng đội thứ hai của ông bị bắn chết thì anh bộ đội của mình sau đó cũng bị bắn chết.

Ông chứng kiến tất cả những cái chết đó của đồng đội và của đối phương! Và bài thơ đó là một cuộc trò chuyện với “kẻ thù”:

Tôi vẫn luôn nghĩ về anhSuốt ba mươi lăm năm qua.

Anh có ngạc nhiên chăngNếu biết rằng trong suốt ba mươi lăm năm ấyTôi cảm giác mình là kẻ đồng phạm với anhTrước cái chết của bạn bè tôi?

Tôi thù ghét anh suốt bao năm trườngVì anh đã sử dụng tôi như miếng mồi săn thú.Nhưng thú thật,Nếu chúng ta đổi ngược vai cho nhauThì tôi cũng sẽ làm như thế.

Giờ đây tôi ao ướcGiá mà tôi có thể trò chuyện cùng anh.

Tôi tự hỏi: Anh đã nghĩ gì về tôi?Tôi tự hỏi: Lúc ấy anh có khiếp sợ như tôi?Tôi tự hỏi: Khi ấy anh có căm ghét tôi như tôi đã căm ghét anh?Tôi tự hỏi: Anh đã chinh chiến được bao năm?Tôi tự hỏi: Ngày ấy anh đã vợ con chưa?

Và tôi vẫn hay tự hỏi: Nếu như anh còn sốngVà rồi nếu ta gặp lại nhau hôm nay,Liệu anh có chịu chuyện trò cùng tôi?

Đôi lúc tôi tưởng tượngCó một ngày ta gặp lại nhauVà huyên thuyên kể về trận đánh ấyTrong khi con cái chúng ta nô đùa cùng nhau.

Anh là một người lính giỏiAnh là một tay súng cừ....Nếu như tôi có thể,Tôi sẽ tặng anh một tặng vậtMà tôi đã từng khao khát suốt những năm tháng qua -Tặng vật Hòa bình.

DUYÊN TRƯỜNG
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên