18/01/2010 00:45 GMT+7

Những bí ẩn trong đời một "Việt Minh" - Kỳ 3: Con đường chính nghĩa

THẾ ANH
THẾ ANH

TT - Sau những ngày tháng lênh đênh, sống trong khủng hoảng tại các nước thuộc địa Pháp, tháng 4-1946 Platon Alexandrovich được đưa đến VN. Đến Sài Gòn, Platon được điều động lái xe trong một trung đội thông tin, nơi có cả lính Pháp và lính thuộc địa. Sau đó ông được điều về Thủ Đức, Sa Đéc, Vĩnh Long, Bến Tre để trấn áp quân “phiến loạn”. Platon chưa bao giờ biết đến VN.

Kỳ 1: Ký ức nơi miền tuyết trắngKỳ 2: Bi kịch của chiến tranh

mfI243H6.jpgPhóng to
Platon (đứng, bìa trái) cùng các chiến sĩ Việt minh ở miền Tây -Ảnh do Janine cung cấp

Trong những đêm lạc lõng bồng súng canh trong đồn, linh cảm của một chiến sĩ Hồng quân mách bảo cho ông rằng những tiếng súng phát ra sau những rặng dừa kia không phải là quân phiến loạn ở thuộc địa Pháp.

Quyết định lương tâm

Platon Alexandrovich sinh ngày 28-3-1922 tại thành phố Kharkov, Ukraine. Tham gia Hồng quân Liên Xô chống lại phát xít Đức năm 1940, sau đó bị bắt làm tù binh ba năm rồi sung vào lính lê dương đưa đến VN. Từ 1947 ông theo Việt minh và được kết nạp vào Đảng Lao động VN. Từ 1955 ông về Liên Xô làm ở ban Việt ngữ đài phát thanh Matxcơva. Ông qua đời năm 2003.

Một ngày kia, trong mớ chiến lợi phẩm quân lê dương Pháp thu về có một tập tài liệu và mấy tấm ảnh. Sau này ông kể lại trên một tờ báo Nga: “Thoáng thấy mấy tấm hình bọn chúng giơ cao, tôi suýt nữa bật đứng nghiêm chào như thói quen ở Liên Xô. Đó là ảnh Lênin. Ngay lập tức tôi hiểu VN đứng về phía nào. Những tấm ảnh đã cứu linh hồn tôi”.

Tại Vĩnh Long, ông đã bắt liên lạc với một số người hoạt động bí mật trong thành phố, nhưng chưa nhận được tín hiệu trả lời thì họ đã bị mật thám bắt. Ông viết: “Dù biết con đường trở lại với chính nghĩa rất gian nan nhưng tôi vẫn không hề nản. Đau đớn nhất của tôi lúc đó là đã nhìn thấy ánh dương từ bên kia sông, sau những rặng dừa nhưng trong lúc chờ thời cơ tôi vẫn phải cầm súng bắn về phía đó theo lệnh của người Pháp”.

Giữa năm 1947, cơ hội thật sự đã đến với Platon khi ông được điều về lái xe bồn chở nước. Hằng ngày ông chở những tù binh người Việt đến lấy nước ở trạm bơm cách trường hạ sĩ quan khoảng 1km. Ông thường giấu khẩu phần ăn của mình mang theo phân phát cho tù binh, phụ họ xách nước, trò chuyện như những người bạn. Thấy ông tốt bụng, một tù binh hỏi: “Tại sao ông tốt với chúng tôi như vậy?”.

Ông trả lời: “Vì tôi cũng đã từng là tù binh như các anh. Các anh là tù binh của Pháp, còn tôi từng là tù binh của Đức. Tất cả chúng ta đều là con người nên cần phải đối xử với nhau như những con người thực thụ. Chúng ta chỉ là nạn nhân của chiến tranh, lòng tham và áp bức... Tôi ghét điều đó!”.

Platon Alexandrovich không ngờ rằng câu chuyện giữa ông và những tù binh Việt đã gây chú ý cho một chiến sĩ Việt minh tên Sô hoạt động bí mật ở trạm bơm. Những ngày tiếp theo, người chiến sĩ tên Sô bắn đi những tín hiệu và dường như Platon cũng bắt được. Một lần thấy Sô đứng gần, nhân lúc mọi người đang xách nước thì ông lột chiếc mũ cátkét trắng của quân lê dương đang đội trên đầu ném mạnh xuống đất.

Sô hỏi ông: “Nóng quá hả?”. Platon đáp như vô tình: “Không, tại nó làm đầu tôi đau. Tôi sẵn sàng thoát khỏi nó”. Rồi ông lôi từ trong túi ra chiếc mũ calô, chỉ cho Sô xem ngôi sao đỏ đính kèm trên mũ, nói tiếp: “Tôi thích cái này hơn. Tôi là cựu tù binh, người Liên Xô”.

Bước thăm dò đã xong, trường hợp của Platon được Sô thông báo về chỉ huy. Vài ngày sau họ gặp nhau. Ông ghi lại khoảnh khắc đáng nhớ đó: “Đêm đó trời tối như bưng, tôi trốn khỏi trại lính và mang theo một bao tải súng đạn đến nơi đã hẹn. Khi đến gần những bụi cây lúp xúp gần bìa rừng thì có người nhào ra nắm lấy tay tôi kéo vào sâu trong rừng. Đó là đêm 17-8-1947. Tôi đã tìm thấy rạng đông giữa đêm đen. Có thể nói đó là quyết định lương tâm mà tôi không thể nào cưỡng lại được!”. Trong đêm đó, giữa rừng sâu, Platon được kết nạp vào hàng ngũ Việt minh.

Xứ dừa máu thịt

Những ngày đầu trở thành Việt minh đầy gian khó. Trước đó, trong hàng ngũ lính lê dương Pháp chưa bao giờ ông phải vừa cầm súng, vừa lặn lội tìm cái ăn. Bánh mì, bơ sữa biến mất, thay vào là mắm muối, rau dưa. Ông tập tành chèo xuồng ba lá, kết lá dừa lợp nhà. Thấy các má mò cua bắt ốc, ông cũng nhào xuống phụ. Thấy các anh trong xóm gánh lúa, ông cũng nhào vô gánh...

Dần dà, ông được thương như con cái trong nhà, các má đặt cho ông tên mới là Hai Thành. Ai có nải chuối ngon, nhà ai nấu bánh cũng chừa phần cho ông. Janine, con gái ông kể lại: “Bố Thành cứ nhắc mãi ngày đầu ăn mắm do các má nấu, cái mũi bố như điếc đi nhưng không dám bịt lại vì sợ các má buồn.

Vậy mà sau vài lần bố lại nghiện luôn món mắm ăn với bông điên điển. Rồi ba khía, sầu riêng... đều là món khoái khẩu của bố. Sau khi về nước, bố vẫn thường nhắc đến những món đó. Có người bạn biết được, mỗi lần qua Nga đều mang cho bố ít ba khía nhưng bố nói vẫn không ngon bằng ba khía của các má làm...”.

Ở Bến Tre, Hai Thành mặc quân phục sĩ quan Pháp, đeo lon quan hai cùng đồng đội cải trang, đi xe jeep tiến hành những cuộc đánh úp chiếm đồn bót, cướp vũ khí. Gần một năm kiểu cải trang đó bị quân Pháp phát hiện, ông được đưa về trung đoàn 99 Bến Tre rồi được chuyển sang tiểu đoàn 307.

Hai Thành đã cùng đồng đội chèo xuồng, lội ruộng, băng đồng xuôi ngược từ Tháp Mười tới mũi Cà Mau. Hình ảnh của ông được một đồng đội nhớ lại: “Sau giờ đánh Pháp, anh lại lùi về cắm câu soi cá, bắt chuột, cũng mắm muối tương chao, cũng áo cổ vuông, quần đùi túi hàm ếch, cũng rút xuống lỗ trâu đằm rít hơi thuốc trong đêm hành quân...”.

Thương ông côi cút phải xa gia đình, xa quê hương, bản xứ, các má vun đắp cho Hai Thành kết duyên với cô gái xinh đẹp xứ dừa. Một đám cưới giản dị giữa một ông Tây và cô gái miệt vườn diễn ra trong vùng giải phóng năm 1948. Một năm sau Janine ra đời. Bến Tre bị chiếm đóng khắp nơi, Hai Thành buộc phải chuyển về Trà Vinh hoạt động. Đó cũng là lý do dẫn đến sự tan vỡ gia đình riêng của ông.

Ông ghi lại: “Được tin vợ đi lấy chồng khác tôi đã chết lặng. Tôi sầu muộn mấy tháng, nhưng nhờ có bạn bè tốt, cuộc đời có mục đích rõ ràng nên đã vượt qua. Tôi không hề trách cứ vợ tôi, ngược lại cảm ơn cô ấy đã cho tôi một đứa con. Nhờ có Janine mà tôi đỡ nhớ các má và xứ dừa khi về nước Nga xa xôi... Mỗi khi nhớ những hàng dừa rũ bóng bình yên bên sông là tôi lại ngồi im nhìn ngắm Janine. Có thể con tôi không biết, nhưng nó là hình ảnh quê hương thứ hai của tôi, nơi tôi đã từng có một gia đình...”.

___________________

Trước khi rời VN, ông chọn một vườn cau đứng chụp một tấm hình đầy lưu luyến. Tấm hình ấy như một vóc dáng quê hương thứ hai mà trọn cuộc đời Platon đã thề sẽ giữ thủy chung son sắt.

Kỳ cuối: Cha - con và câu chuyện “nhịp cầu”

THẾ ANH
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên