![]() |
Ảnh: Lâm Viên |
Ba năm trước, đề thi cứ liên tiếp ra về chăn nuôi nên năm nay tôi mạnh dạn bỏ hẳn phần này không học (!). Kết quả là tôi chỉ bịa ra được khoảng gần một trang giấy vì lần thứ tư đề thi cũng vẫn là... chăn nuôi.
Buổi sáng cuối cùng thi môn sử, bước vào phòng thi tôi vừa đi vừa khóc. Tôi gục đầu xuống bàn vì nghĩ đến mẹ, đến cha; đến cả sáu tháng trời không hề xem phim hay vui chơi của mình... “Em có làm sao không?” Một giọng nói ấm và đầy truyền cảm đã buộc tôi ngẩng lên. Trước mặt tôi là một ánh mắt đầy thông cảm. Đó là thầy giáo giám thị phòng thi. Thầy khoảng 40 tuổi. Mắt thầy rực sáng sau chiếc kính, còn nụ cười thì thật hiền. Tôi lại bật khóc. “Nếu em buồn vì hôm qua không làm được bài thì hôm nay phải cố hết sức mình. Hãy can đảm lên. Hãy quyết tâm đến cùng” - thầy nhẹ nhàng nói với tôi.
Tôi chợt hiểu ra rằng thầy đã đọc được ý nghĩ của tôi. Thậm chí tôi đã tin là thầy biết cả lý do vì sao tôi khóc. Quan trọng hơn, thầy đã đem đến cho tôi sự tự tin và khao khát thi đỗ đến lạ kỳ. Tôi khẽ dạ nho nhỏ rồi lí nhí cảm ơn thầy. Nhìn vào chỗ dành cho giám thị ký tên, tôi biết tên thầy là Nguyễn Văn Hồng. Hôm đó bài thi môn lịch sử tôi viết 13 trang và cảm thấy hài lòng.
Trúng tuyển vào khoa sử Trường đại học Tổng hợp Hà Nội tôi được gặp lại thầy. Thế nhưng vì thầy không dạy nên chẳng bao giờ tôi có đủ can đảm và cơ hội để nói chuyện với thầy. Năm thứ tư, học chuyên ngành, ngay trong buổi đầu tiên học môn lịch sử Indonesia tôi đã tự nhủ mình nhất định sẽ theo thầy. Khi có tên các đề tài luận văn tốt nghiệp, tôi đăng ký đề tài “Mỹ và Indonesia”.
Buổi đầu tiên hai thầy trò gặp nhau để trao đổi về công việc, câu đầu tiên thầy hỏi tôi là: “Tại sao em chọn tôi?”. Tôi kể với thầy câu chuyện ba năm trước và nói thêm rằng tôi tin sẽ học hỏi được rất nhiều vì tôi hiểu thầy là một trong những người có kiến thức uyên bác nhất. Năm 1977 là năm mà kinh tế nước ta vô cùng khó khăn. Chúng tôi ngồi ở Thư viện Quốc gia từ sáng đến tối mà buổi trưa chỉ đủ tiền để ăn một ổ bánh mì không giá ba hào. Hầu như trưa nào thầy cũng đến kéo tôi đi ăn trưa. Tôi xấu hổ và ngại ngần từ chối nhưng không thể được. Cho đến tận bây giờ, gần 30 năm trôi qua, tôi vẫn chưa mời thầy dù chỉ một bữa cơm trưa (!).
Hồi ấy, tài liệu tiếng Việt về Mỹ và Indonesia có rất ít. Do vậy dịch tiếng Anh và tiếng Nga để làm luận văn khổ sở vô cùng. Thường tôi chỉ biết khoảng ba từ trong một câu. Tôi đoán và dịch bừa theo chủ ý của mình và tôi tin là thầy không biết! Một lần thầy nói với tôi: “Trong khoa học cũng như trong cuộc đời, em nên nhớ phải cố giữ cho được tính trung thực. Tất nhiên là khó lắm. Nhưng một khi mình đã không còn tôn trọng ngay cả cái đầu nằm trên cổ mình thì thật là một bi kịch”. Từ lần ấy, mỗi khi chợt nhớ đến thầy tôi vẫn cảm thấy mình đáng hổ thẹn biết bao nhiêu.
Thầy đã học và nghiên cứu ở Trung Quốc nhiều năm. Một hôm thầy hỏi tôi có biết một nhà thơ thời Đường tên là Lý Thương Ẩn (813-858) hay không. Tôi trả lời là hình như có nghe nói nhưng chẳng biết câu thơ nào của ông cả. Thầy đọc cho tôi nghe bài thơ Vô đề của Lý mà giờ đây tôi còn chỉ nhớ được hai câu:
Xuân tàm đáo tử ty phương tậnLạp cự thành hôi lệ thủy can.
Sau đó thầy giảng nghĩa cho tôi rằng: “Cuộc đời của kẻ sĩ cũng giống như con tằm mùa xuân, phải lao động cực nhọc cho đến khi chết mới thôi. Nghiên cứu hay viết lách phải rứt ruột mình ra mà nhả thành những sợi tơ biếc có ý nghĩa. Ngọn nến cứ cháy và những giọt “nước mắt” của nó cứ rơi, chảy dọc theo thân nến. Cho đến lúc cả ngọn nến tan thành tro bụi thì mới không còn nước mắt nữa. Em có biết vì sao nến có thể cháy và “khóc” được hay không? Đó là bởi nhờ sợi chỉ nằm giữa thân nến. Đó là tim nến, “trái tim” của ngọn nến. Chừng nào còn một trái tim, con người vẫn còn biết khóc. Phải lao động và biết thông cảm, thương yêu con người đó là nguyên tắc, bổn phận của lẽ sống còn...”.
Hai câu thơ của Lý Thương Ẩn mà thầy đọc cho tôi nghe thật là thấm thía. Tuy nhiên nghiệm lại cuộc đời mình, tôi biết rõ mình chưa bao giờ hiểu hết lẽ mà thầy nhắn gửi. Tôi vẫn cứ viết một cách dễ dãi và cứ “ngâm cứu” một cách qua loa. Không ít lần tôi phải xấu hổ khi đọc lại những cái gọi là “công trình” của mình. Tệ hơn nữa, tôi đã thường xuyên không làm tròn bổn phận của một người thầy khi dám tiếp bước theo thầy. Tôi là một kẻ chưa bao giờ dám đốt cháy trái tim mình để nó tan chảy thành nước mắt.
Có rất nhiều thầy giáo, cô giáo đã góp sức để tạo nên một số phận, một cuộc đời. Thế nhưng cũng có không ít những người học trò cứ mãi để “Lớp học trốn tìm và bụi phấn rong chơi”. Thầy bây giờ hẳn là đã già yếu lắm rồi. Đôi khi tôi ước ao được trở lại một thoáng thôi của ngày xưa đam mê và thơ dại ấy. Nhất định tôi sẽ không bịa ra những số liệu để bớt nhọc nhằn. Tôi sẽ không uống một cách vội vàng ly sữa tươi mà thầy đã cho tôi uống vào buổi trưa ở phố Tràng Tiền.
Chắc chắn bây giờ nếu trở lại ngày ấy, tôi sẽ có đủ bình tĩnh và sự thức nhận để hiểu thế nào là vẻ đẹp óng ánh và huyền diệu của một sợi tơ mà con tằm rứt ruột, cam chịu, đem đến cho đời. Ngày ấy, Hà Nội thường xuyên mất điện. Không ít lần tôi ngồi với thầy bên ngọn nến đằm sáng, lung linh; vậy mà chưa một lần tôi nhìn “thấy” tim của cây nến thẳm sâu, khắc khoải đến thế nào.
Thầy ơi, ngày 20-11 đã đến rồi. Con muốn được nói với thầy một câu: “Cho dù những thế hệ học sinh như con có không ít điều lầm lỗi nhưng từ những gì chúng con sau này hiểu rồi biết; đều cam quyết rằng những người thầy như thầy mãi mãi là ngọn nến rực rỡ của trí tuệ, là trái tim cháy bỏng thương yêu, đem đến cho chúng con ánh sáng ấm áp suốt cuộc đời”...
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận