![]() |
Cấu tạo giải phẫu trung thất |
Nấc là sự co thắt đột ngột, vô thức của cơ hoành, làm cho thanh thiệt bị đóng mạnh và nhanh, gây ra một tiếng động đặc biệt. Nấc chỉ là một chứng đơn độc, nhưng cũng có khi là một dấu hiệu lâm sàng của một số bệnh nguy hiểm do nhiều nguyên nhân.
Nguyên nhân gây nấc
Nguyên nhân gây nấc là do sự kích động dây thần kinh cơ hoành - một cơ rộng ngăn cách khoang bụng và ngực. Cơ hoành là bộ phận quan trọng tham gia trong quá trình nấc. Thần kinh cơ hoành có hai phần: phần trung tâm nằm trên não, phần ngoại biên là hai dây thần kinh đi từ cổ xuống ngực.
Nguyên nhân trung tâm: gồm các bệnh:
Viêm màng não: Do tụ cầu, liên, phế cầu, trực khuẩn lao, virut. Bệnh nhân sốt cao, nhức đầu, nôn vọt thành tia không liên quan đến bữa ăn, nấc từng cơn, điều trị bằng các thuốc không khỏi. Khám thấy mạch chậm, cứng gáy, dấu hiệu vạch màng não dương tính, Kernig dương tính, có thể liệt. Rối loạn về tâm thần như kích động hay li bì, nặng có thể hôn mê. Cần làm công thức máu, chọc dịch tủy sống để xét nghiệm sinh hóa, tế bào, vi khuẩn.
U não: Không sốt, nhức đầu dai dẳng, buồn nôn, nôn và nấc ngày càng tăng. Có thể liệt nửa người. Cần chụp Xquang, chụp cộng hưởng từ hộp sọ để tìm khối u.
Urê huyết tăng trong suy thận, gây rối loạn thần kinh cơ, làm tăng kích thích cơ hoành.
Nguyên nhân ngoại biên: Gồm các bệnh trong lồng ngực: tim, phổi, trung thất. Các bệnh ở ổ bụng như bộ máy tiêu hóa, gan, thận.
Viêm màng phổi thể khu trú ở cơ hoành, viêm mủ hoặc tràn dịch màng phổi. Bệnh nhân sốt, khó thở, nằm nghiêng về bên cơ hoành viêm thì đau, đôi khi gây nấc do cơ hoành bị kích thích. Cần chụp Xquang phổi, siêu âm màng phổi. Những bệnh nhân viêm phổi ở thùy đáy cũng có triệu chứng nấc kéo dài.
Viêm màng ngoài tim: Do vi khuẩn, do lao, gây tràn dịch màng ngoài tim, viêm màng ngoài tim cũng có khi bị nấc.
U trung thất: Mới đầu phù hai mắt, có thể kèm theo ù tai, chóng mặt, sau phù ở mặt, cổ, ngực và hai tay. Kèm theo tím tái. Các tĩnh mạch ở ngực giãn, nổi rõ ở dưới da, tĩnh mạch cổ nổi rõ và giãn. U chèn ép vào phế quản gây khó thở, ho khan, chèn vào dây thần kinh quặt ngược gây giọng khàn, nói hai giọng, chèn vào dây thần kinh hoành gây nấc. Cần chụp Xquang và chụp cắt lớp vi tính lồng ngực.
Bệnh ở các cơ quan trong ổ bụng: Viêm dạ dày, thực quản có khi gây nấc, thường đau vùng thượng vị, ợ hơi, ợ chua, nhất là lúc ăn chua, uống bia rượu. Cần nội soi dạ dày, thực quản. Viêm màng bụng do tạp khuẩn, do lao cũng gây nấc. Nấc còn gặp ở phụ nữ có thai, người bị mổ vùng bụng, người uống rượu nhiều, người ăn thức ăn cay, uống nước giải khát có nhiều ga.
Nấc tâm lý: Gặp ở những người cười nhiều, người bị stress, thần kinh căng thẳng hoặc cảm xúc quá mạnh.
Điều trị: Tùy theo tình trạng nấc nặng hay nhẹ.
Nấc nhẹ: Thường là nấc cơ năng, do tâm lý, có thể tự hết sau khi ăn, uống nước lạnh hoặc chườm đá vùng thượng vị. Bạn có thể dùng lời nói làm cho người bị nấc hoảng sợ đột ngột thì sẽ hết nấc. Nếu không khỏi, làm nghiệm pháp Valsalva như sau: ngậm miệng, bịt mũi, bịt tai, hít vào sâu rồi ép hơi thở ra thật mạnh (nhưng không cho hơi ra), làm vài lần sẽ hết nấc.
Nấc dai dẳng: Nếu nấc dai dẳng, kéo dài phải tìm nguyên nhân, nếu không có nguyên nhân có thể chữa như sau: uống thuốc an thần chloproethazin (phenothiazin), viên 25mg, ống 5ml, tiêm 1-2 ống hoặc uống 1-2 viên/ngày. Thuốc chống co thắt: spasmaverin 40-80mg, primperan 10mg, uống 1-3 viên/ngày; lioresal 10mg, uống 1-2 viên/ngày.
Nấc nặng: Hút dạ dày, gây mê; ức chế cơ hoành tạm thời bằng bupivacain hoặc cắt dây thần kinh hoành. Ngoài ra đối với các thể nấc dai dẳng và nấc nặng có thể kết hợp với châm cứu, day bấm huyệt. Châm các huyệt: túc tam lý, thiên khu, trung quản, thiên đột, nội quan. Cũng có thể cứu: quan nguyên, khí hải, đản trung, cự khuyết, thượng quản nhất. Liệu trình: Mỗi ngày châm cứu một lần, mỗi lần 20-30 phút. Trường hợp nặng, lâu ngày có thể châm cứu 2 lần/ngày. Kết hợp điện châm với cứu, hiệu quả rất tốt.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận