![]() |
Lớp tinh hoa chính trị Mã Lai truyền thống, dựa trên cơ sở xã hội quý tộc, đối mặt với một vấn đề tương tự của các đại gia chính khách Philippines theo chủ nghĩa dân tộc đang dâng lên mạnh mẽ: cần hỗ trợ sự nghiệp giành độc lập mà không phải trả giá về kinh tế.
Ngay khi chủ nghĩa thực dân Mỹ ủng hộ vị trí của tầng lớp có đất đai ở Philippine, sự hiện diện của Anh đảm bảo cho địa vị của tầng lớp tinh hoa Mã Lai trong một tình trạng mà, vào những năm 1950, những người Mã Lai trở thành một đa số trơ trọi do sự di cư hàng loạt từ Trung Quốc và Ấn Độ.
Với sự du nhập của nền dân chủ, đảng của giai cấp cầm quyền ở Malaysia - Tổ chức Quốc gia Thống nhất Malaysia (UMNO) - cần một sự thích ứng chính trị với nhóm tinh hoa kinh tế người Trung Quốc để bảo đảm cho lợi ích của mọi người.
Những biện pháp để đi tới kết cục này là Hiệp hội Malay - Trung Quốc (MCA), một chính đảng được thành lập vào năm 1949 và được các doanh nhân Trung Quốc hàng đầu tài trợ. Những người này là Lưu Bá Quần và H. S. Lý, một chủ mỏ thiếc lớn, và Trần Trinh Lộc và con trai ông ta là Trần Tu Tín, những thành viên của một triều đại người Mã Lai gốc Trung Quốc ở Malacca với nguồn lợi lớn từ cao su.
Trần Tu Tín sau này trở thành một bộ trưởng tài chính quan trọng. MCA và UMNO thành lập Liên minh, một cỗ xe vận động bầu cử hướng về độc lập vận hành bởi sự đồng thuận không thành văn của các tầng lớp tinh hoa vì sự thống trị của chế độ quan liêu Mã Lai và không có sự tấn công của nhà nước vào vị trí của người Trung Quốc trong kinh doanh.
Edmund Terence Gomez, học giả hàng đầu về mối quan hệ nhà nước và doanh nghiệp ở Malaysia, đã mô tả đặc điểm của sự sắp đặt này là “sự thống trị của tầng lớp được ngụy trang bằng chủ nghĩa dân túy dân tộc”. Trong cuộc tổng tuyển cử đầu tiên vào năm 1955, Liên minh đã loại bỏ 51 trong số 52 ghế nghị sĩ.
Trong chính phủ sau độc lập, những người lãnh đạo MCA chiếm giữ các vị trí kinh tế chủ chốt trong các bộ tài chính, thương mại và công nghiệp, và những doanh nhân Trung Quốc được ban phát các giấy phép thành lập ngân hàng và xí nghiệp sản xuất có bảo hộ thuế quan. Những người lãnh đạo UMNO nắm giữ quyền lực tối thượng, và do đó nắm giữ những khả năng vô hạn để làm giàu. Các tầng lớp tinh hoa rất mãn nguyện.
Tuy nhiên, suốt những năm 1960, sự không bình đẳng tăng thêm trong mỗi nhóm chủng tộc ở Malaysia, và đặc biệt là nhóm người Mã Lai. Có nhiều dự án nhằm thiết lập những cơ quan tin cậy và một ngân hàng chính sách để hỗ trợ người Mã Lai bản xứ, nhưng chẳng có gì đủ chắc chắn để tránh được cuộc xung đột sắc tộc ở Kuala Lumpur vào tháng 5 năm 1969.
Phản ứng với vụ bạo lực này là một lời nhắc nhở ảm đạm đối với cộng đồng người Trung Quốc không có một quyền lực chính trị thực sự nào. Năm 1971, chính phủ ban hành Chính sách Kinh tế mới (NEP) với nhiều mục đích - phân chia giá trị tài sản chung, việc làm ở thành thị, tuyển sinh đại học - được thiết kế để nâng cao vị thế của người gốc Mã Lai.
Trong khi tầng lớp trung lưu người Trung Quốc và con cái họ chịu ảnh hưởng lớn các điều khoản của chính sách này - bị loại khỏi các cơ hội việc làm và giáo dục - việc tăng tỉ trọng giá trị tài sản chung trong các doanh nghiệp của người bản xứ chủ yếu đạt được là do các doanh nghiệp nước ngoài (chủ yếu là doanh nghiệp Anh) sử dụng tiền bán dầu mỏ (những đồng đô-la dầu mỏ) họ có được vào những năm 1970 để mua lại toàn bộ cổ phiếu của nhà nước. Không có sự rạn nứt nào về cấu trúc kinh tế ở tầng lớp tinh hoa.
Sau thời hạn hai mươi năm đương đầu với chính sách kinh tế mới, hết hiệu lực vào năm 1990, tỉ trọng tài sản chung trong doanh nghiệp của người Mã Lai ở Malaysia đã tăng từ gần như không có gì tới khoảng một phần năm, nhưng tỉ trọng tài sản chung của người Trung Quốc chỉ tăng gấp đôi, từ một phần năm lên hai phần năm.
Việc này phản ánh một sự thật là nhóm huynh đệ của các đại gia đang làm tốt hơn bao giờ hết. Chính sách kinh tế mới đã không chấm dứt được sự câu kết giữa các nhóm tinh hoa chính trị và nhóm tinh hoa kinh tế khác nhau về thành phần dân tộc.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận