24/03/2007 11:06 GMT+7

Mô hình hợp tác nào cho nghiên cứu khoa học?

NGUYỄN MINH THỌ (GS hóa học, Đại học Leuven, Bỉ)
NGUYỄN MINH THỌ (GS hóa học, Đại học Leuven, Bỉ)

TTCT - Nói cho cùng, NCKH cũng khó có thể vượt qua hoàn cảnh và trình độ phát triển chung của đất nước. Đây là kết quả của một giai đoạn lịch sử vừa qua, và còn là của những chính sách giáo dục và đào tạo liên tục không phù hợp với phát triển kinh tế và văn hóa.

8U5GXscP.jpgPhóng to
TTCT - Nói cho cùng, NCKH cũng khó có thể vượt qua hoàn cảnh và trình độ phát triển chung của đất nước. Đây là kết quả của một giai đoạn lịch sử vừa qua, và còn là của những chính sách giáo dục và đào tạo liên tục không phù hợp với phát triển kinh tế và văn hóa.

Bài 1: Mô hình hợp tác nào cho nghiên cứu khoa học?

Trong năm qua, ở trường đại học này, viện nghiên cứu kia, đã thấy bắt đầu có vài giáo sư, chuyên gia VN ở nước ngoài được mời về giữ những trách nhiệm như chủ nhiệm bộ môn, trưởng nhóm nghiên cứu... Dù những người này vẫn phải hoạt động trong một khuôn khổ có sẵn, đây là một bước phát triển đáng khích lệ, kết quả cần được để ý.

Gần đây, Sở Khoa học và công nghệ TP.HCM đã tiến thêm một bước mới khi đề nghị lãnh đạo thành phố thực hiện một cách tổ chức khác: thành lập một viện nghiên cứu hoàn toàn mới, do một nhóm giáo sư, chuyên gia người VN ở nước ngoài, thật sự là những con chim đầu đàn trên thế giới, thiết kế sơ đồ tổ chức, đề nghị nội dung nghiên cứu và tổ chức thực hiện. Người viện trưởng, viện phó, người hướng dẫn... cũng như đa số thành viên hội đồng khoa học, có thể là người nước ngoài.

Thành phố cung cấp phương tiện và ngân sách, song cho phép viện này có được quyền tổ chức nhân sự và quản lý ngân sách theo quan điểm của mình (trong khuôn khổ pháp luật hiện hành). Ví dụ như để có thể thu hút được nhiều nhân tài trong ngành, viện có thể đưa ra một chế độ tiền lương và khen thưởng riêng, đảm bảo đời sống cho các nhà nghiên cứu để họ không phải lo tìm cách kiếm ăn bên ngoài.

Viện mới này không thay thế các cơ quan đang tồn tại, song điều quan trọng là khi triển khai NCKH, viện có thể tập hợp các nhóm nghiên cứu hiện có ở thành phố (trong cùng một ngành song thường chẳng thể hợp tác với nhau) để cùng hoạt động, với mục đích giúp đào tạo nhân lực, hỗ trợ kiến thức, và hướng đề tài NCKH theo chiều hướng quốc tế.

Các nhóm ở các cơ quan khác nhau đều có thể tham gia và sử dụng trang thiết bị của viện. Họ sẽ thực hiện những đề tài chung, có ngân sách chung để thường xuyên gặp gỡ, giới thiệu kết quả và thảo luận. Và các cơ quan chủ quản có cơ chế để dành cho họ thời gian nhiều nhất cho việc nghiên cứu. Viện này có thể tìm được nguồn ngân sách trong nước như các chương trình nghiên cứu, các đề tài NCKH cấp tỉnh, thành phố, bộ, nhà nước... hoặc cũng có thể nhận những đề tài nghiên cứu quốc tế hay từ các công ty.

Viện sẽ là nơi dành cho những ai có khả năng và đam mê hoạt động khoa học, tạo điều kiện thật sự cho họ làm NCKH mà không phải lo việc cơm áo. Điều đáng mừng là sau nhiều cân nhắc, chính quyền thành phố đã chấp nhận mô hình tổ chức này. Hi vọng mô hình này sớm được triển khai và thành công.

Song một mô hình khác, có thể xem là “thoáng” hơn, đang được triển khai thí điểm ở Trung Quốc (TQ). Tôi nghĩ đây cũng là một mô hình rất thực tiễn và khả thi.

Giống như những công ty quốc tế lớn mở chi nhánh ở các nước đang phát triển, các phòng thí nghiệm của ĐH Mỹ cũng bắt đầu mở những chi nhánh của họ ở các trường đại học TQ. Tức là họ đến mở một phòng thí nghiệm tại một đại học TQ và coi đó là một vệ tinh, một bộ phận của phòng thí nghiệm chính ở Mỹ.

Người giáo sư Mỹ là người đứng đầu phòng thí nghiệm ở TQ, điều hành thực hiện chương trình nghiên cứu của họ, song các trường ĐH TQ đầu tư cơ sở hạ tầng, ngân sách cho thiết bị và nhân sự. Người chủ nhiệm có toàn quyền triển khai chương trình nghiên cứu của mình, song phải chọn nhân viên, NCS từ ĐH TQ.

Các công trình nghiên cứu được công bố với tên của hai trường. Theo tôi biết, các đồng nghiệp người Mỹ không đòi hỏi gì nhiều, họ làm việc ở Mỹ và TQ song chủ yếu hưởng lương ở Mỹ; và ĐH TQ chịu toàn bộ chi phí cho họ như đi lại, ăn ở, bảo hiểm sức khỏe... trong thời gian họ làm việc ở TQ.

Đối với các giáo sư, chuyên gia nổi tiếng, các trường ĐH TQ đã/đang phải bỏ hàng triệu đôla để thu hút họ đến TQ, giúp xây dựng một ngành khoa học. Họ hiểu rằng xây dựng được một phòng thí nghiệm hiện đại có tên tuổi, được hướng dẫn bởi một con chim đầu đàn, và nhất là việc dần dần xây dựng môi trường, cách tổ chức và tinh thần NCKH như ở Âu-Mỹ, thì mô hình này là cách đầu tư rẻ cho chất xám, và như ta hay nói là một cách “đi tắt đón đầu”... Tùy bản lĩnh học hỏi tiếp thu, phía TQ đào tạo được tại chỗ nhiều hơn những con người có tri thức và biết cách làm NCKH!

Như vậy, trong mô hình này thông số chính là có được nguồn đầu tư ban đầu, và tìm được những chuyên gia “chim đầu đàn” sẵn sàng về/đến làm việc ở VN, dù họ là người Việt sống ở nước ngoài hay người nước ngoài. Câu hỏi đặt ra là liệu mô hình này có thể áp dụng được ở VN chưa? Lại một vấn đề tổ chức và cơ chế!

NGUYỄN MINH THỌ (GS hóa học, Đại học Leuven, Bỉ)
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên