![]() |
Nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan tại buổi trao đổi trực tuyến - Ảnh Website báo điện tử Đảng CSVN |
VN gia nhập WTO: Con đường chưa có dấu chân
* Bạn Nguyễn Đình Tánh (Elin Pelin - Sofia, Bun-ga-ri): Thành công của Hội nghị APEC 14 được thể hiện như thế nào?
- Đồng chí Vũ Khoan: Tôi cho rằng thành công của Hội nghị APEC lần thứ 14 thể hiện trên 4 mặt.
Vấn đề giáo dục là vấn đề cốt tử trong thời đại toàn cầu hóa này. Tôi không phải chuyên gia về vấn đề này, nhưng nếu hỏi tôi với tư cách cá nhân thì tôi quan tâm nhất là phương pháp dạy và học. Trong đổi mới giáo dục chuyển phương dạy thầy đọc - trò ghi, thành phương pháp thầy gợi ý - trò tự tư duy và sáng tạo.Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan trả lời câu hỏi của một sinh viên ĐHSP Hà Nội |
Thứ hai: củng cố quan hệ với các quốc gia, cường quốc quan trọng với một loạt các chuyến thăm của Tổng thống Hoa Kỳ, Liên Bang Nga, Chilê và Thủ Tướng Nhật Bản. Đây là những quan hệ hàng đầu mà chúng ta quan tâm.
Thứ ba: Lôi cuốn một số nước lớn, doanh nghiệp hàng đầu khu vực thế giới vào Việt Nam thể hiện trên diễn đàn đầu tư Việt Nam, Hội nghị các tổng giám đốc. Họ vào và thấy Việt Nam là nơi đáng để làm ăn bởi đây đúng là thời điểm thuận lợi (vừa gia nhập WTO) thêm vào đó là yếu tố con người trẻ, thân thiện, có kiến thức tốt. Bởi thế chúng ta đã ký nhiều hợp đồng trị giá hàng tỷ đôla trong các hội nghị song phương. Đây là những đóng góp về mặt vật chất.
Thứ tư: Do tổ chức tốt, nhân dân lại cởi mở, hữu nghị, mến khách. Đưa đến một hình ảnh Việt Nam năng động và thân thiện. Đây là tài sản vô hình chúng ta thu được qua APEC, góp phần nâng cao vị thế của đất nước.
Chưa bao giờ thế giới nói về Việt Nam như bây giờ. Trước đó, tôi cũng theo dõi báo chí nói về ASEM nhưng ít cả về số lượng và nội dung trong khi đó, với APEC họ khen ngợi nhiệt thành.
Tôi nhận thấy cuộc đối thoại này rất ý nghĩa và bổ ích. Phạm vi đối thoại rộng, không chỉ trong phạm vi trong nước, trong khu vực, mà trên phạm vi toàn cầu. Đây là cơ hội để nhân dân có thể tiếp xúc, trao đổi những vấn đề còn vướng mắc với lãnh đạo Đảng và Nhà nước; cũng là cơ hội để chúng tôi có thể hiểu được tâm tư nguyện vọng của nhân dân và chuyển tải đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng và Nhà nước tới nhân dân. Tôi hy vọng rằng, các báo điện tử, các bộ, ngành hãy thường xuyên tổ chức các cuộc đối thoại trực tuyến thay vì tiếp dân. Đây là kênh đối thoại rất tốt trong thời đại khoa học công nghệ. |
* quocquynh_vn@ hỏi: Hội nghị APEC đã thành công tốt đẹp, nhưng chi phí mà chính phủ bỏ ra để tổ chức hội nghị cũng không phải là nhỏ. Mất hơn 4.000 tỷ để xây Trung tâm hội nghị quốc gia, nhập ô tô, chi phí bảo vệ, đón tiếp các đoàn khách. Cộng lại thấy con số đó cũng không phải là nhỏ.
Vì vậy những việc làm hậu APEC, hậu WTO của Chính phủ để mang lại lợi ích nhiều nhất cho đất nước, xứng đáng với những gì bỏ ra mới là quan trọng. Bác có thể cho biết những cam kết lớn nào đạt đựợc từ nhưng cuộc gặp song phương và đa phương giữa nước ta và các nước thành viên ?
- Đồng chí Vũ Khoan: Trước hết tôi phải thanh minh rằng, việc xây dựng Trung tâm hội nghị quốc gia không phải chỉ dành riêng cho APEC. Chẳng qua trùng với dịp APEC nên được sử dụng đầu tiên. Đây là trung tâm hội nghị phục vụ cho nhiều sự kiện của đất nước chúng ta với hơn 80 triệu dân. Từ trước tới nay chưa có một hội trường nào đáp ứng được yêu cầu về các hoạt động lớn của đất nước ngay Đại hội Đảng cũng phải hạn chế đại biểu do không đáp ứng hết. Vì thế hội nghị là phục vụ cho nhiều mục tiêu chứ không chỉ tính riêng cho APEC.
- Chi phí cho APEC thể hiện ở việc là nước chủ nhà, chúng ta phải đảm bảo tiêu chuẩn APEC đề ra như: bảo đảm xe cộ cho những người đứng đầu đoàn, khách sạn, cơ sở vật chất, nơi ăn, nơi họp và các phương tiện kỹ thuật... Phương châm của Chính phủ là dành chi phí ít nhất nhưng đạt hiệu quả cao nhất.
Do đó chúng ta phải tìm mọi cách giảm chi phí đồng thời huy động những nhà tài trợ và chúng ta đã huy động được các nhà tài trợ hơn 70 tỷ đồng. Đây là những điều thu lại không tính được ra tiền nhưng lại tích luỹ giá trị thành tiền to lớn. Hình ảnh và vị thế của Việt Nam được nâng cao, mở ra nhiều cơ hội gia tăng hợp tác, đầu tư du lịch. Đó chưa kể những ký kết hợp đồng lớn với các doanh nghiệp khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc... trị giá hàng tỷ đôla.
Nếu có thể nói về thu lại chi phí, đây cũng là khoản để bù lại so với chi phí mà chúng ta bỏ ra. Về nội dung này tôi cũng được nhiều người hỏi và thấy cần phải làm rõ để nhân dân yên tâm. Có thể khẳng định rằng công sức chúng ta bỏ ra không hề lãng phí.
* Bạn Nguyễn Trung Thành - thanhdh@hn. hỏi: Điều tôi quan tâm là sau APEC, sau WTO, quan hệ của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới đã thay đổi đáng kể. Vậy chính sách, đường lối đối ngoại của ta có gì thay đổi so với trước không?
Đồng chí Vũ Khoan: Với phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá vừa đảm bảo độc lập dân tộc vừa phát triển đất nước, thực hiện chính sách Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trên thế giới.
Sau WTO và APEC 14, chính sách đó sẽ được tiếp tục và về cơ bản không có gì thay đổi, chỉ có thêm một số bổ sung mới, đó là:
Một, nước ta đã phát triển các quan hệ chiều rộng đã tốt, thậm chí là rất rộng nhưng hiện nay, điều trọng tâm là phải đi vào các mối quan hệ ổn định, bền vững, lâu dài. Nếu nói một cách hình tượng, có thể thấy như thế này: hàng hoá Việt Nam có mặt trên 100 quốc gia nhưng mỏng đến mức có thể thổi bay. Do đó, ta phải hướng tới tính bền vững với bề dày hợp tác, sâu rộng với các nước.
Hai, Đại hội X đã xác định: Việt Nam tích cực chủ động tham gia hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. Hiện nay, chúng ta đã có một vị thế mới nên tính chủ động là đòi hỏi mới trong bối cảnh này. Việc chủ trì tốt APEC 14 chứng tỏ chúng ta có khả năng, có vai trò tích cực, thậm chí có những lúc đóng vai trò chủ đạo.
Ba, hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn hiện nay là một đặc thù, là một mốc lịch sử đánh dấu nước ta chuyển từ nền kinh tế mở sang hội nhập một cách đầy đủ với kinh tế thế giới. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh vai trò tiên phong, xung kích của các doanh nghiệp. Hội nhập có thành công hay không phụ thuộc lớn vào các doanh nghiệp, đằng sau các doanh nghiệp là các công nhân, nông dân nhưng trực tiếp ra “chiến đấu” trên thương trường là doanh nghiệp.
* Phóng viên Báo Tiền phong: Việc Việt Nam gia nhập WTO muộn hơn so với Trung Quốc, nguyên nhân vì đâu?
- Đồng chí Vũ Khoan: Đây là con đường mới chưa có dấu chân. Chúng ta cần phải tìm hiểu và học tập kỹ càng trước khi gia nhập WTO. Gia nhập AFTA chính là chúng ta đã làm cuộc tập dượt, trải nghiệm ban đầu. Hơn nữa, trước khi gia nhập WTO, chúng ta đã phải trải qua hơn 1.000 cuộc đàm phán với 28 đối tác và phải chịu không ít những tác động về nhân tố chính trị. Do đó chúng ta có muốn nhanh cũng không được.
* PV: Vậy theo ông, chúng ta đã đủ thời gian chưa?
- Đồng chí Vũ Khoan: 100 năm nữa cũng chưa đủ. Thử thách từ thực tế là những bài học quý giá nhất. Nếu chúng ta "không xuống nước thì không bao giờ biết bơi". Ta đã lặn ngụp trong "cái ao" AFTA và bây giờ ra "biển lớn" WTO.
* Nguyễn Hồng Loan từ địa chỉ hongloan1791@: Gia nhập WTO thì phải đối mặt với sự cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn. Vậy xin đồng chí cho biết Việt Nam có những lợi thế cạnh tranh nào?
- Đồng chí Vũ Khoan: Phải khẳng định một điều là chúng ta phải tin vào năng lực của mình, không có niềm tin đó chúng ta sẽ thất bại. Niềm tin này có cơ sở hay không? Hoàn toàn có. Những năm trước đây, chắc hẳn nhiều người thời chúng tôi vẫn còn nhớ chúng ta đã khổ như thế nào vào những năm 80 của thế kỷ 20. Sau 20 năm đổi mới nền kinh tế đã “thay da đổi thịt” và có nhiều ngành khiến thế giới phải nể phục.
Tôi lấy ví dụ: Nếu trước đây chúng ta phải nhập khẩu gạo, nói theo đúng nghĩa đen là “vác rá đi xin” nhưng bây giờ tình hình đã đổi khác chúng ta xuất nước xuất khẩu gạo. Hay như với mặt hàng cà phê, chúng ta đã trở thành nước xuất khẩu đứng hàng đầu thế giới. Trước đây, khi còn là Bộ trưởng Bộ thương mại tôi đã tiếp Hiệp hội xuất khẩu cà phê, ca cao về đề nghị xuất khẩu từ từ mặt hàng này.
Một ví dụ nữa về hiệp định song phương AFTA với Hoa Kỳ bản thân tôi cũng đã chịu nhiều sức ép lớn khi có nhiều ý kiến cho rằng tại sao lại ký AFTA, tại sao phải tự do thương mại, phải chịu nhiều điều kiện ngặt nghèo… Nhưng 10 năm qua, chúng ta thấy nền kinh tế Việt Nam có tụt hậu không. Thực tế là không. Nền kinh tế nước ta tăng trưởng mạnh mẽ, thị trường Hoa Kỳ hầu như từ mức zero đã trở thành một thị trường lớn. Nếu trước đó chỉ đạt 700 triệu đôla kim ngạch song phương thì nay đã lên tới 6 đến 7 tỷ đôla. Niềm tin về một sức cạnh tranh lớn của chúng ta là có cơ sở.
Tôi cho rằng lợi thế lớn nhất của chúng ta là con người. Tôi nói điều này không mang tính giáo điều bởi con người Việt Nam rất năng động, linh hoạt, đây là một bản sắc văn hoá. Và thực tế 20 năm đổi mới đã chứng minh cho điều này - dân tộc ta, người nông dân Việt rất thông minh và có tiềm lực lớn miễn là chúng ta có cơ chế và chính sách cho họ.
WTO với Doanh nghiệp, Doanh nhân
* Bạn Nguyễn Thị Yến, Công ty cổ phần Xây dựng số 1VINACONEX: Trong cuộc đối thoại mới đây với DN trẻ, bác có đề cập đến 5 chữ T và chỉ rõ đó là: Tiền, Tài, Tín, Tình hay Tâm và Thuế. Chúng cháu rất tâm đắc với 5 chữ ấy. Xin hỏi bác, trong 5 chữ ấy, chữ nào cần được quan tâm nhất ?
- Đồng chí Vũ Khoan: 5 chữ T này phản ánh yêu cầu cần có của DN trẻ Việt Nam trong thời đại hội nhập. Chữ T đầu tiên là: Tiền. Không thể làm ăn gì nếu không có tiền; có tiền mà không có tài thì không thể có lãi; Làm ăn mà không có chữ tín thì sớm muộn cũng phá sản; nhưng đối với người Việt Nam tiền không phải là tối thượng mà phải gắn với tình, phải chăm lo đến phúc lợi xã hội, phải có cái tâm; phải đóng thuế đầy đủ.
Nếu nói trong 5 chữ T ấy, chữ nào quan trọng nhất, theo tôi là chữ TÍN. Hiện nay, chúng ta làm ăn với nước ngoài, chưa quan tâm nhiều lắm đến chữ TÍN. Chúng ta có thể hưởng được một phi vụ nhưng sẽ mất bạn hàng nếu không coi trọng chữ TÍN. Chữ tín có hai mặt: tín với bên ngoài và tín giữa các DN với nhau. Cả hai khâu đó chúng ta hiện đều yếu. Cho nên, theo tôi chữ TÍN là quan trọng nhất.
* Bạn Lê Thị Hằng, DN tư nhân TP.HCM: Vào WTO, nước ta phải phát triển đồng bộ các loại thị trường. Dự đoán của bác về tương lai thị trường tài chính?
- Đồng chí Vũ Khoan: Khi gia nhập WTO, chúng ta phải mở cửa thị trường tài chính. Tôi lo nhiều về thị trường dịch vụ, trong đó là thị trường ngân hàng, tài chính bởi thị trường này còn yếu, mới mẻ. Thị trường này chỉ mới phát triển khoảng mươi năm trở lại đây. Có nhiều thành tố còn sơ khai như: thị trường chứng khoán, các ngân hàng tuy có bề dày nhất định nhưng cũng chưa thực sự là ngân hàng thương mại.
Chính vì vậy, trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, đây là phần đàm phán mất nhiều thời gian nhất. Ví dụ: quy định của chúng ta về các ngân hàng thương mại Việt Nam bán cổ phần cho DN nước ngoài nhưng không quá 30%; các DN nước ngoài được mở chi nhánh nhưng phải hạn chế, muốn mở thêm phải xin phép. Tương tự như vậy, có quy định cho DN kinh doanh trên thị trường chứng khoán, có bảo hộ trong lĩnh vực tài chính…
Tuy nhiên, cũng không phải lo lắng gì nhiều về việc cạnh tranh với DN nước ngoài. Việc DN nước ngoài tham gia vào thị trường tài chính có nhiều cái lợi: giúp chúng ta tăng thêm vốn; học được phương cách kinh doanh tài chính; thông qua kinh doanh, DN tài chính của chúng ta sẽ trưởng thành lên…
Bên cạnh đó, chúng ta cũng sẽ gặp phải thách thức trong cạnh tranh với họ. Nhưng tôi tin rằng cũng như các ngành khác, ngành tài chính sẽ đứng vững và vươn lên mạnh mẽ.
* Bạn Nguyễn Đức Trung, địa chỉ: 1979_ht@: Chúng ta có khoảng 250 nghìn doanh nghiệp. Đồng chí đánh giá thế nào về tương lai của các DN, có bao nhiêu DN làm ăn có lãi và bao nhiêu DN bị phá sản?
- Đồng chí Vũ Khoan: Một trong những nhân tố thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chính là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hiện các doanh nghiệp này đang đóng góp hơn 30% vào GDP.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thế mạnh là vì quy mô nhỏ nên họ cơ động, linh hoạt, thích ứng thị trường nhanh hơn. Với cơ chế "của đau, con xót", họ phải lo miếng cơm, manh áo cho công nhân nên họ làm việc rất hết lòng. Vì còn nhỏ và yếu nên họ dễ liên kết với nhau hơn, hiệu quả từ việc liên kết sẽ cao hơn.
Nhược điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là vốn ít, lực yếu, tìm kiếm thị trường cũng khó khăn. Vì thế, trong chương trình hành động của Chính phủ phải giúp họ khắc phục điểm yếu này.
Còn vấn đề bao nhiêu doanh nghiệp phá sản hay làm ăn có lãi thì phải chính các doanh nghiệp là người quyết định số phận của họ. Nhưng kinh nghiệm cho thấy những doanh nghiệp này có sức sống rất mãnh liệt. Nếu họ không thành công ở lĩnh vực này thì họ sẽ chuyển sang lĩnh vực khác để kinh doanh chứ không bao giờ chịu chết.
* quocquynh_vn@: Theo như nhận định của một chuyên gia kinh tế nước ngoài thì sau khi vào WTO, một loạt doanh nghiệp nhỏ của chúng ta bị phá sản (đặc biệt trong lĩnh vực thương mại dịch vụ). Ý kiến của chính phủ như thế nào về nhận định trên? Nếu điều đó là đúng thì biện pháp của chính phủ để giúp đỡ̉ các doanh nghiệp nhỏ là gì?
- Đ/c Vũ Khoan: Nguy cơ phá sản không chỉ đe dọa các doanh nghiệp nhỏ và vừa, mà đe dọa với tất cả các doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả. Tôi nhận thấy chính các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể linh hoạt hơn, xoay sở dễ dàng để thoát khỏi khủng hoảng, không kém gì các doanh nghiệp lớn. Tôi nhấn mạnh vấn đề phá sản không tuỳ thuộc quy mô mà phụ thuộc vào hiệu quả. Chính phủ luôn cho rằng doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế bởi nền kinh tế nước ta còn nhỏ, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chúng ta đã thành lập Cục Doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc Bộ Kế hoạch-Đầu tư và Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ mới ra đời.
Về vấn đề hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có thể nhận thấy trên các vấn đề sau:
Thứ nhất, hỗ trợ về thông tin: chính sách và thị trường để các doanh nghiệp có thể nắm bắt, xoay sở và thích nghi với những biến đổi của thị trường;
Thứ hai, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ!
Thứ ba: hỗ trợ đổi mới kỹ thuật, công nghệ!
Thứ tư: các cơ quan Nhà nước hỗ trợ tiêu thụ hàng hóa, tìm thị trường. Chính phủ có hẳn Quỹ xúc tiến thương mại dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây là chính sách lớn mà ngay các nước phát triển phải quan tâm do các doanh nghiệp này hoạt động hiệu quả, thu hút nhiều lao động.
* Bạn Nguyễn Khải, địa chỉ: nguyenkhaiđn@ hỏi:Theo ông, những sự kiện nào xứng đáng được chọn là TOP TEN vào sự kiện ngoại giao năm 2006?
- Đồng chí Vũ Khoan: Chọn 10 sự kiện thì rất khó, nhưng tôi xin kể ra một số sự kiện nổi bật có thể coi đứng vào TOP TEN vào sự kiện ngoại giao năm 2006.
Thứ nhất, tổ chức Hội nghị APEC thành công;
Thứ hai, Việt Nam, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO.
Thứ ba, Việt Namm được các nước châu Á đồng thanh đề cử ứng cử viên thường trực Hội đồng bảo an LHQ. Đây là một sự kiện đáng chú ý.
Thứ tư, Làn sóng đầu tư đạt kỷ lục 9 tỷ USD.
Thứ năm, Kim ngạch xuất khẩu tăng chưa từng có, sắp đạt ngưỡng 40 tỷ USD.
Thứ sáu, Lượng du lịch vào Việt Nam sau APEC tăng đột biến.
Thứ bảy, Chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sang Nhật Bản, đánh dấu mốc mới trong quan hệ hai nước. Với Nhật bản, lần đầu tiên chúng ta đã thỏa thuận xây dựng quan hệ đối tác chiến lược; lần đầu tiên Nhật bản đã dành cho Việt Nam diễn đàn Quốc hội rất trang trọng; giới doanh nghiệp Nhật bản chưa bao giờ hào hứng với thị trường Việt Nam đến như vậy.
Thứ bảy, Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc có bước phát triển đột biến: Tổng Bí thứ Nông Đức Mạnh sang thăm Trung Quốc; Chủ tịch Hồ Cẩm Đào sang thăm Việt Nam hai lần trong năm nay và đã có những thỏa thuận cụ thể về hợp tác giữa hai bên.
Thứ tám, Quan hệ giữa Việt Nam với Mỹ: Lần đầu tiên Tổng thống Mỹ sang thăm Việt Nam. Chính phủ Mỹ trước đó đã buộc phải đưa Việt Nam ra khỏi danh sách các nước cần quan tâm về vấn đề tôn giáo.
* Bạn Thành Linh nguyenthanhlinh@: Xin đồng chí cho biết ngành nào là ngành kinh tế mũi nhọn sau khi nước ta gia nhập WTO và việc phát huy thành quả đạt được của ngành kinh tế đó?
- Đồng chí Vũ Khoan: Xác định ngành kinh tế mũi nhọn là kiểu tư duy cũ, không phù hợp với cuộc sống. Ngành nào là mũi nhọn còn tuỳ thuộc vào lợi thế so sánh và nhu cầu của thị trường.
Nếu nói chung nhất, trong thời gian hiện nay, ngành kinh tế mũi nhọn là những ngành sử dụng nhiều lao động, cần được chú trọng phát triển. Một số ngành như nông nghiệp (sản xuất gạo, cà phê, hạt điều, hạt tiêu...), thuỷ sản... là những ngành có lợi thế của chúng ta, vượt lên các ngành khác, có thể coi đó là những ngành kinh tế mũi nhọn. Chúng ta phải khuyến khích phát triển những ngành đó.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng muốn phát triển những ngành công nghệ cao, nhưng đòi hỏi phải có thời gian. Chúng ta đã có một số khu công nghệ lớn ở Hà Nội và TP.HCM nhưng còn cần phải có thời gian để phát triển. Quan trọng nhất là chúng ta phải chuẩn bị đó là nguồn nhân lực đáp ứng được những đòi hỏi của ngành này.
* Mai Hồng - maihong6981@: Thưa đồng chí Vũ Khoan, tôi là chủ một doanh nghiệp sản xuất hàng nhựa gia dụng ở Đồng Nai. Tôi có theo dõi và được biết ngay từ 1-1-2007 đã có một số mặt hàng phải giảm thuế với mức trung bình là 44%, chủ yếu là các hàng tiêu dùng. Như vậy, đa số người dân sẽ được lợi. Tuy nhiên đây lại là một thách thức không nhỏ với hầu hết các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất - kinh doanh hàng tiêu dùng trong nước. Thời gian chỉ còn chưa đầy 1 tháng. Vậy đồng chí có lời khuyên nào cho những doanh nghiệp như chúng tôi để đối mặt với vấn đề trên?
- Đ/c Vũ Khoan: Qua câu hỏi này tôi nhận thấy có sự hiểu lầm. Chúng ta gia nhập WTO có cam kết giảm thuế nhưng không giảm đồng loạt từ ngày 1-1-2007, mà có lộ trình khác nhau. Đề nghị các doanh nghiệp xem lại biểu thuế do Bộ Thương mại đã công bố.
Tôi xin nhắc lại không đồng loạt giảm thuế từ ngày 1-1-2007, và cũng không giảm đồng loạt 44%. Mặt hàng nhựa như bạn hỏi sẽ giảm thuế từ 10% xuống còn 6%, nhưng cũng có lộ trình đến năm 2012.
Bạn nên xem Biểu thuế, từ đó chọn ra những mặt hàng nào có lợi, đồng thời đổi mới công nghệ và chú ý nghiên cứu nhu cầu thị trường để có thể tránh những vấn đề cạnh tranh nảy sinh.
WTO với nông nghiệp và nông thôn
* Bạn Phan Thế Lượng, TP.HCM: Vào WTO người nông dân sẽ được những lợi ích gì? Họ có thể sẽ gặp phải những tổn thương nào? Họ cần phải làm gì để tránh những tổn thương đó?
- Đồng chí Vũ Khoan: Chính phủ rất quan tâm đến vấn đề nông nghiệp, nông dân. Khi gia nhập WTO, Chính phủ đã tiến hành cam kết:
- Giảm thuế nhập khẩu nông sản ít. Bình quân là 23,45%, trong cam kết gia nhập giảm xuống 21%.
- Đi vào từng mặt hàng nông sản, đối với các mặt hàng ảnh hưởng lớn đến nông dân thì chúng ta giảm rất thấp. Ví dụ: về gạo không giảm; thịt có giảm, hiện nay 35%, giảm 30%, nhưng lại có lộ trình là từ nay đến nay 2012. Những mặt hàng khác thì giảm ít và thực hiện theo lộ trình từ nay đến 2010. Đối với các mặt hàng mà ta không sản xuất là bột mỳ từ giảm từ 20% xuống 15%.
- Mặt hàng đối với nông dân còn yếu thì chúng ta bảo hộ bằng cách áp dụng thuế hạn ngạch: đường, muối… Chúng ta cam kết tới một giới hạn nào đó, chúng ta tự do hóa, giảm bớt một phần, nhưng có linh hoạt. Xử lý theo hứong giảm ít, mặt hàng nào nhạy cảm thì dùng hạn ngạch bảo hộ.
- Duy trì đầu vào cho nông nghiệp: ví dụ phân bón duy trì mức thấp là 6.,5%.
- Trợ cấp cho nông nghiệp: theo quy định WTO chia ba bộ phận: hộp xanh là trợ cấp của Chính phủ để xóa dói, giảm nghèo, cho nông nghiệp.. không có gì hạn chế; hộp vàng: cấm trợ cấp trực tiếp cho nông sản thì thôi. Cái đó không ảnh hưởng đến bà con nông dân. Hộp hổ phách: những cái phải giảm bớt thì không nhiều.
Gia nhập WTO,bà con nông dân có ảnh hưởng nhưng không nhiều, không có gì phải lo lắng. Ví dụ như sữa: 20% xuống 18% nhưng 20% nhưng đến 2009 mới thực hiện.
Chúng ta không nên nghe những thông tin không chuẩn xác để tránh những lo lắng không có cơ sở.
* Bạn Đỗ Ngọc Thăng, Đại học Nông nghiệp hỏi: Xin Bác cho một lời khuyên cụ thể đối với những người làm nghề nuôi trồng thủy, hải sản?
- Đồng chí Vũ Khoan: Tôi chỉ có hai lời khuyên cụ thể đối với người nuôi trồng hải sản. Đó là: chú ý tiêu chuẩn vệ sinh cho các mặt hàng thủy hải sản. Chúng ta phải tuân thủ quy định rất ngặt nghèo của các tiêu chuẩn đó khi gia nhập WTO; hai là tránh tập trung quá nhiều vào một thị trường mà phải đa dạng hóa thị trường dể tránh kiện cáo nói rằng chúng ta phá giá!
* Bạn Nguyễn Tô Chu, Q.8, TP.HCM: Tôi đã đến nhiều vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, tôi thấy tác động của WTO đến đời sống nơi đây chưa rõ nét, thậm chí còn bị ảnh hưởng tiêu cực hơn. Ví dụ hàng hóa của họ sản xuất ra khó tiêu thụ hơn. Vậy Nhà nước ta sẽ xử lý vấn đề này như thế nào?
- Đ/c Vũ Khoan: Ở đây có sự hiểu lầm mà tôi muốn thông qua mạng của Đảng để chuẩn xác lại. Đó là không phải WTO sẽ sinh ra mọi thứ, cũng không phải là tác nhân gây ra các “tội”. Không nên đặt cho nó vị thế quá sức dẫn đến chúng ta thất vọng. Vì WTO chỉ là phương tiện chứ không phải là tất cả. Ở vùng sâu vùng xa mà được thụ hưởng lợi ích từ việc gia nhập WTO phụ thuộc toàn bộ nền kinh tế của quốc gia gia nhập có thể tận dụng được cơ hội từ việc gia nhập hay không.
Do đó không thể nói là có thể hưởng thụ một cách trực tiếp. Bà con thụ hưởng lợi ích do gián tiếp chứ không phải trực tiếp. Chúng ta đã có chính sách trợ cấp, trợ giá cho bà con vùng sâu vùng xa. Nhưng có lẽ cơ chế này không hiệu quả lắm bởi vì trợ cấp không được bao nhiêu và không đến được nhiều với bà con. Chúng ta cần phải suy nghĩ lại cách trợ cấp cho bà con vùng sâu vùng xa một cách hiệu quả nhất!
* Bạn Nguyễn Thanh Hương, TP Long Xuyên, An Giang hỏi: Vào WTO nông dân vẫn được hưởng một số trợ cấp, trợ giá, đặc biệt về khoa học công nghệ. Vấn đề nông dân chúng tôi quan tâm là lộ trình trợ cấp trợ giá đối với sản xuất nông nghiệp của nước ta đã được chính phủ hoạch định như thế nào?
- Đ/c Vũ Khoan: Những trợ cấp nông nghiệp Chính phủ vẫn làm thì tiếp tục làm, đặc biệt là những công trình thủy lợi. Trong trái phiếu chính phủ dành cho giao thông 70% và 30% cho thuỷ lợi. Về chương trình giống, nếu tôi không nhầm thì Chính phủ đã dành 3.000 tỉ đồng để nghiên cứu giống cho nông nghiệp. Chúng ta đã làm và sẽ tiếp tục làm.
Trợ cấp cho ngành nông nghiệp trong xuất khẩu nông sản thì đã bị cấm. Trước kia Chính phủ trợ cấp cho các doanh nghiệp chứ không phải nông dân, nhưng như vậy không hiệu quả. Chính phủ đã chuyển hướng trợ cấp cho người nông dân. Trong thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn sẽ chủ trì cùng các bộ, ngành liên quan nghiên cứu các đề án mới. Tuy nhiên vấn đề này cũng không đơn giản. Vấn đề là cơ chế, phải làm thế nào cho người đáng được hưởng phải được hưởng.
Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ có những hành động cụ thể. Bà con hãy tin Chính phủ sẽ có những chương trình đổi mới trợ cấp nông nghiệp và hay tin rằng trước sau gì thì lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn sẽ vẫn là ưu tiên cao nhất.
* Bạn LethanhY lty@most. hỏi: 1. Qua thông tin tôi nhận thức được thì sau khi nước ta gia nhập WTO chúng ta phải bỏ những trợ cấp của nhà nước (ví dụ với ngành nông nghiệp...) và chỉ có những hỗ trợ về khoa học và công nghệ thì mới được chấp nhận, xin hỏi nếu đúng vậy thì hỗ trợ về mặt khoa học và công nghệ được hiểu như thế nào, một số biện pháp cụ thể có thể là gi?
2. Sau khi nước ta gia nhập WTO khoa học và công nghệ cần phải định hướng phát triển như thế nào để tăng năng suất lao động, tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và vượt qua được các rào cản kỹ thuật cũng như hỗ trợ nông nghiệp và các ngành tương ứng khi chúng ta phải bỏ những trợ cấp của nhà nước?
- Đ/c Vũ Khoan: Tôi sợ là ở đây vấn đề lại là thiếu thông tin đầy đủ và chuẩn xác. Về công nghiệp và nông nghiệp trợ cấp được chia làm 3 loại. Trong nông nghiệp và công nghiệp có khu vực xanh không cấm trợ cấp. Ví dụ quy định 2% trợ cấp khoa học. Trợ cấp khoa học không thay đổi. Mà chủ yếu là cách thức trợ cấp. Vấn đề nội bộ của chúng ta là dứt khoát tạo thành một thị trường khoa học công nghệ chứ không phải là bao cấp như hiện nay. VD: vấn đề nghiên cứu giống mới thì vấn được phép trợ cấp Nhà nước. Vấn đề là làm thế nào cho hiệu quả.
- Vấn đề cơ bản nhất là trong khoa học chuyển từ cơ chế xin-cho sang cơ chế thị trường, ứng dụng dứt khoát phải rời bỏ khỏi “con thuyền đã rách nát” của bao cấp xin-cho, biến thành cơ chế thị trường hiệu quả hơn.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận