10/10/2004 08:00 GMT+7

Không có "khẩu súng bốc khói" nào!

M.KIM
M.KIM

TTCN - “Smoking gun” (khẩu súng bốc khói) - được hiểu như là “bằng chứng hiển nhiên” - đã trở thành một trong những từ xuất hiện nhiều nhất được Nhà Trắng dùng trước cuộc chiến Iraq để khẳng định sự tồn tại của chương trình vũ khí giết người hàng loạt của chính quyền Saddam Hussein.

Sự thật về chương trình "Vũ khí giết người hàng loạt của Saddam Hussein":

pVUqlAp3.jpgPhóng to
Tháng 2-2003, Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell tường trình trước Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc về “bằng chứng” theo đuổi chương trình hạt nhân của Saddam Hussein

Tuy nhiên, thứ tư 6-10-2004 CIA đã công bố chính thức bản báo cáo 1.500 trang cho thấy Iraq không có vũ khí cấm vào thời điểm Mỹ thực hiện cuộc chiến “giải giáp Saddam Hussein”. Cuối cùng, Nhà Trắng không còn lý do nào để biện minh hợp lý cho cuộc chiến lật đổ Saddam

Một năm trước cuộc chiến Iraq, giới chức Washington liên tục nhấn mạnh mối đe dọa hòa bình thế giới từ kho vũ khí giết người hàng loạt (WMD) của Saddam Hussein.

Tháng 8-2002, Phó tổng thống Dick Cheney nói rằng “không lâu nữa” Saddam Hussein sẽ có bom nguyên tử. Tháng 9-2002, tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Tổng thống George W. Bush nhấn mạnh gần như chẳng còn gì nghi ngờ về sự đầu tư vũ khí hạt nhân của Saddam Hussein.

Tiếp đó, Dick Cheney lại trình bày rằng tình báo Mỹ đã nắm trong tay “bằng chứng không thể tranh cãi” với hàng ngàn ống nhôm được chế tạo đặc biệt cho sản xuất uranium. Ngay lập tức, “khẩu súng bốc khói” này - những cái ống nhôm - được trình làng như bằng chứng rõ nhất về âm mưu đeo đuổi đến cùng WMD của Saddam Hussein.

"Khẩu súng bốc khói" ở đâu?

Trong một phóng sự khoảng 10.000 từ đăng trên số ra ngày 3-10-2004, tờ New York Times đã cho thấy chính không ít thành viên nội các Bush từng biết rằng “khẩu súng bốc khói” chẳng có giá trị gì. Đầu năm 2001, cũng theo New York Times, cố vấn an ninh quốc gia Condoleezza Rice đã được một số chuyên gia thuộc Bộ Năng lượng Mỹ cho biết các ống nhôm trên có thể chỉ được dùng sản xuất tên lửa nhỏ chứ không thể cho vũ khí hạt nhân.

Theo một báo cáo của Ủy ban Tình báo thượng viện Hoa Kỳ, tình báo Mỹ từng nghe phong thanh vào năm 2001 Iraq định mua 60.000 ống nhôm siêu bền từ Hong Kong. Chế tạo từ hợp kim nhôm đặc biệt 7075-T6, ống nhôm này có thể thích hợp để chế tạo thiết bị quạt cho quá trình ly tâm sản xuất uranium.

Đó cũng là lý do Iraq từng bị cấm mua nhôm 7075-T6 và cũng là lý do một chuyên gia phân tích của CIA tên Joe (New York Times không nêu rõ họ) trong báo cáo tuyệt mật gửi đến Nhà Trắng ngày 10-4-2001 đã khẳng định các ống nhôm siêu bền của Iraq được dùng cho chương trình làm giàu uranium.

Song ngay hôm sau, Bộ Năng lượng Mỹ nhấn mạnh rằng các ống nhôm đó hoàn toàn không thích hợp cho quá trình sản xuất uranium (quá hẹp, quá nặng và quá dài cho công nghệ ly tâm sản xuất uranium). Ngoài ra, nếu để phục vụ chương trình WMD, Iraq chẳng dại gì mua nhôm 7075-T6 công khai trên thị trường nước ngoài.

Năm 1996, thanh tra Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) đã xem xét một số ống nhôm tương tự (cũng làm bằng nhôm 7075-T6) tại một nhà máy quân đội Iraq; và theo IAEA, loại ống nhôm mà Iraq tính mua từ Hong Kong chỉ thích hợp cho sản xuất tên lửa nhỏ. Báo cáo này được nêu trên Daily Intelligence Highlight (9-5-2001), bản tin nội bộ tuyệt mật của Bộ Năng lượng.

Dù vậy, tình báo Mỹ vẫn bắt đầu thực hiện chiến dịch bí mật rình tịch thu các ống nhôm Iraq mua từ nước ngoài. Tháng 6-2001, một chuyến hàng như vậy được bắt ở Jordan. Một lần nữa, ngày 17-10-2001, trong báo cáo Technical Intelligence Note phân tích kỹ về các ống nhôm, các chuyên gia Bộ Năng lượng vẫn phản bác lập luận rằng chúng được dùng sản xuất WMD (nhóm chuyên gia Bộ Năng lượng đều là những nhà khoa học hàng đầu Mỹ về khoa học hạt nhân).

Về kích thước, các ống nhôm hoàn toàn khác với loại mà Iraq từng sử dụng cho công nghệ ly tâm trước cuộc chiến vùng Vịnh 1991. Thành ống nhôm dày gấp ba lần loại thích hợp cho công nghệ ly tâm chế tạo uranium - báo cáo viết. Ngoài ra, loại ống nhôm trên - được phủ lớp hóa chất đặc biệt nhằm hạn chế ảnh hưởng thời tiết - càng không thích hợp cho công nghệ ly tâm (bởi lớp phủ có thể tạo phản ứng hóa học với khí uranium).

Tất nhiên, nhiều viên chức tình báo Mỹ và thậm chí cả Anh đã không bị thuyết phục bởi báo cáo Bộ Năng lượng. Không chỉ chuyện ống nhôm, ngày 12-2-2002 Phó tổng thống Dick Cheney đọc một báo cáo tại Cơ quan Quân báo (thuộc Lầu Năm Góc) về vụ Iraq có kế hoạch mua 500 tấn “bánh vàng” (yellowcake - uranium tinh chất) từ Niger. Vụ này ly kỳ còn bội lần.

Sáng 2-1-2001, cảnh sát Ý được thông báo tòa đại sứ Niger tại Roma bị đột nhập. Không có gì quan trọng bị mất (chỉ một đồng hồ và hai lọ nước hoa!). Tuy nhiên có dấu hiệu cho thấy bọn đạo chích đã lục tung giấy tờ và quẳng bừa trên sàn. Vài tháng sau, Cơ quan tình báo Ý (SISME) tịch thu một bao tài liệu từ một nhà ngoại giao châu Phi. Có chữ ký vài viên chức Chính phủ Niger, tài liệu trên cho thấy vài thông tin liên quan một thương vụ uranium giữa Niger với Iraq. Hí hửng trước mẻ lưới lớn, tình báo Ý thông báo cho đồng sự Mỹ và Anh.

Tuy nhiên vụ việc không có giá trị như một “quả bom mà chỉ ở mức như điếu xì gà đang cháy” - Newsweek viết. Bộ tài liệu, gồm vài lá thư đề từ tháng 7 đến 10-2000, hóa ra là đồ dỏm! Vậy mà thành viên Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ Bob Joseph từng đề nghị đưa chi tiết uranium-Niger vào thông điệp liên bang mà ông Bush đọc ngày 28-1-2003.

Đến tháng 2-2003, CIA mới nhận được bộ tài liệu Ý (từ Bộ Ngoại giao Mỹ, cảnh báo rằng vụ uranium-Niger “rất đáng ngờ”). Cùng lúc, Bộ Ngoại giao Mỹ cũng trao bộ tài liệu Ý cho IAEA. Chỉ hai giờ sau IAEA đã phát hiện đó là bộ tài liệu ngụy tạo để chơi xỏ Mỹ (đến nay vẫn chưa biết ai thực hiện).

Ngã ngũ

AFbYD434.jpgPhóng to
Thanh tra IAEA kiểm tra ống nhôm tại một nhà máy quân đội Iraq (1996)
Suốt hè 2002, cuộc tranh luận về mục đích sử dụng ống nhôm Iraq vẫn chưa ngã ngũ tại Washington. CIA và Bộ Năng lượng mỗi nơi “tán” mỗi kiểu. Washington cuối cùng nhờ đến ý kiến của Ủy ban Tình báo năng lượng nguyên tử (JAEIC, cơ quan tuyệt mật, từng xử lý và đánh giá các kết luận về tình báo hạt nhân cho Washington trong nửa thế kỷ).

Tháng 8-2002 JAEIC tổ chức phiên họp thứ nhất. Lúc này xích mích và mâu thuẫn về thông tin tình báo Iraq giữa các cơ quan an ninh Mỹ đã trở nên trầm trọng. Phiên họp JAEIC lần thứ hai dự kiến cuối tháng tám cũng như phiên họp thứ ba đầu tháng chín đều bị hủy, mà một trong những lý do là chủ tịch JAEIC thời điểm đó là một chuyên gia thuộc Bộ Năng lượng.

Trong bối cảnh như vậy, chiến dịch tuyên truyền về chương trình WMD Iraq tiếp tục đánh động trên phương tiện thông tin, bất chấp sự hoài nghi lan rộng trong Quốc hội Mỹ (tháng 8-2002, thượng nghị sĩ Dân chủ Dianne Feinstein, thành viên Ủy ban Tình báo thượng viện, từng đến trụ sở IAEA tại Vienna và được khẳng định rằng Saddam Hussein không thể có WMD). Phần mình, Bộ Năng lượng thậm chí bí mật làm việc với Viện An ninh quốc tế và khoa học (tổ chức kiểm soát vũ khí tại Mỹ) để phản biện khẳng định CIA thiếu cơ sở về tiềm năng WMD Iraq. Ngày 23-9-2002, Viện An ninh quốc tế và khoa học tung ra loạt báo cáo nhắc lại ý kiến Bộ Năng lượng.

Chẳng ai ngó ngàng báo cáo này (tờ Washington Post chỉ đăng vài hàng thông tin liên quan và nhiều tờ báo lớn khác, trong đó có New York Times, đã không hề đề cập dù chỉ một dòng).

Trong khi đó, ngày 2-10-2002 (chín ngày trước khi thượng viện bỏ phiếu giải pháp chiến tranh cho vấn đề Iraq), Ủy ban Tình báo thượng viện nhận được báo cáo “Đánh giá tình báo quốc gia (NIE)”, với nội dung khẳng định qui kết của Cheney về khả năng Saddam Hussein có “đồ chơi chết người là có “cơ sở”, rằng Saddam Hussein chuẩn bị chi 17,5 USD cho mỗi ống nhôm, rằng ống nhôm 7075-T6 chỉ để dùng cho vũ khí hạt nhân chứ chẳng phải tên lửa.

Ngày 7-12-2002, Iraq nộp báo cáo 12.200 trang về chương trình vũ khí không qui ước của họ cho Liên Hiệp Quốc (không nhắc đến chi tiết ống nhôm). Vậy là Washington kêu lên rằng Saddam Hussein tiếp tục dối trá. Cuối tháng 1-2003, nhân vật bí hiểm Joe của CIA (rồi đây hẳn còn được nói đến nhiều với chi tiết rõ ràng về nhân thân hơn) thậm chí bay sang Vienna thuyết phục IAEA ủng hộ lập luận Washington.

Tuy nhiên, ngày 27-1-2003, IAEA vẫn tường trình trước Hội đồng Bảo an rằng không có bằng chứng WMD tại Iraq… Cần nói thêm trong vụ “khẩu súng bốc khói” ống nhôm, báo chí Mỹ đã có phần trách nhiệm trong việc phóng đại bản chất sự việc, trong đó có cả tờ New York Times (hạ tuần tháng 5-2004, tờ báo này đã chính thức xin lỗi độc giả vì thông tin sai lệch liên quan WMD Iraq, từ loạt bài tường thuật sai lệch của phóng viên Judith Miller, người từng đoạt Pulitzer và là phóng viên New York Times đặc trách Trung Đông).

Đến lúc này thì gần như mọi khuất tất xung quanh cuộc chiến Iraq đã được mang ra ánh sáng. Iraq không có WMD (sau cuộc chiến vùng Vịnh 1991) và rõ ràng rằng việc “tước vũ khí nguy hiểm” của Saddam Hussein chỉ là cái cớ. Trong khi đó đến thời điểm này, một số viên chức trong nội các Bush vẫn bảo vệ luận điểm chiến tranh của họ.

Hôm 3-10-2004, cố vấn an ninh quốc gia Condoleezza Rice tiếp tục trình bày rằng “đến giờ tôi vẫn ủng hộ tính đúng đắn của việc quyết định xem xét nghiêm túc đánh giá tình báo rằng Saddam Hussein có thể có vũ khí hạt nhân đến cuối thế kỷ này”, nếu Mỹ không hành động ngăn chặn.

M.KIM
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên