Hồi ký Jane Fonda: "Một mình đến VN"
![]() |
Jane Fonda tham gia biểu tình chống cuộc chiến tranh của Mỹ tại VN ở Valley Forge (Pennsylvania) tháng 9-1970 |
Các hoạt động phản chiến trong thời kỳ chiến tranh VN và chuyến đi của bà tới Hà Nội năm 1972 để tố cáo cuộc chiến phi nghĩa của chính quyền Mỹ đã khiến bà có thêm cái tên Jane Hà Nội, nhưng mặt khác cũng khiến bà gặp không ít khó khăn khi trở về nước Mỹ.
Vì khuôn khổ có hạn, Tuổi Trẻ xin lược dịch mảng hồi ức của Jane Fonda về VN trong các trích đoạn "Đời tôi cho đến ngày nay", mới xuất bản ngày 5-4.
[...] Tôi sắp xếp hậu cần cho chuyến đi nhờ sự trợ giúp của đoàn đại biểu VN tại cuộc đàm phán hòa bình ở Paris, tự mua một vé máy bay khứ hồi, và bay đến New York. Kể từ năm 1969, những khách mời người Mỹ đến Hà Nội thường chuyển thư từ của tù binh chiến tranh Mỹ tại đây… Tôi cầm theo một gói thư của gia đình các tù binh Mỹ để đem đến Hà Nội cho họ.
Những bất ngờ từ thực tế
Tôi đi (Hà Nội) một mình... Lúc đó tôi không biết việc một ai đó - đặc biệt là một người nổi tiếng, và là phụ nữ - đi một mình vào vùng chiến tranh thì bất thường như thế nào. Mặc dù thế, tôi không hề tiếc về việc tôi đã đi. Điều duy nhất tôi ân hận trong chuyến đi này là việc chụp ảnh tôi trên mâm pháo cao xạ của Bắc Việt. (*)Kể từ năm 1965, hơn 200 công dân Mỹ đã đến miền Bắc VN và trở về với những báo cáo mắt thấy tai nghe… Tất cả đều kể lại việc (máy bay Mỹ) ném bom ồ ạt vào các mục tiêu thường dân, bao gồm nhà thờ, bệnh viện và trường học.
Các báo cáo này cũng nêu rõ rằng việc ném bom không hề làm Bắc Việt chùn bước và không đạt được kết quả như mong muốn là làm cho chính phủ Bắc Việt thoái lui trên bàn thương lượng, và nhấn mạnh việc Bắc Việt đã chuẩn bị thương lượng nếu Mỹ ngừng ném bom và rút quân khỏi VN...Chẳng bao lâu máy bay đã vào vùng trời VN. Tôi bắt đầu hình dung ra đất nước này giống hình ảnh một phụ nữ vươn cao đầu, chiếc bụng mang bầu của người phụ nữ này vươn ra phần biển, trông cô bé nhỏ và mong manh đến nỗi bất kỳ một siêu quyền lực nào cũng cảm thấy chắc chắn là sẽ chiếm giữ được cô chỉ trong thoáng chốc. Đất nước này nằm trên một mảnh đất thật mảnh dẻ, mảnh dẻ như chính những con người đang cư ngụ trên đó.Chuyến bay dự kiến chỉ ngắn thôi, nhưng khi bay gần đến Hà Nội, tôi nhìn ra cửa sổ máy bay và thấy bóng đen của tám chiến đấu cơ Con Ma của Mỹ lượn vòng trên bầu trời thành phố Hà Nội. Tôi cứng cả người lại.
Có một điều gì đó nói với cơ thể tôi trước cả khi nói với cái đầu của tôi về mục đích sự hiện diện của những chiếc Con Ma này. Trong cuốn nhật ký hành trình, tôi ghi lại rằng những chiến đấu cơ này trông giống như bầy diều hâu lượn quanh con mồi. Loa máy bay thông báo những chiến đấu cơ Con Ma đang ném bom Hà Nội, và máy bay của tôi sẽ phải quay lại về hướng Vientiane (Lào) cho đến khi đợt ném bom kết thúc. (Sau đó tôi cũng đọc được rằng các chiến đấu cơ của Mỹ lợi dụng việc Bắc Việt tránh bắn mục tiêu khi đang có máy bay dân dụng trong vùng trời Hà Nội).Tôi nhìn chăm chắm vào những chiếc chiến đấu cơ khuất dần tầm mắt. Những chiếc máy bay của nước tôi đang thả bom vào thành phố đang sắp đón nhận tôi như một khách mời. Tôi căm ghét việc giết hại, kể cả việc lính Mỹ bị giết lẫn việc họ giết hại người khác. Tôi biết rằng cách để hỗ trợ họ là chấm dứt chiến tranh và đưa họ về nhà... Chuyến xe dài một giờ từ sân bay về Hà Nội là một chấn động lớn. Tôi chờ đợi nhìn thấy một sự tuyệt vọng. Thay vào đó, tôi thấy người, rất nhiều người, bận rộn với công việc của họ mặc dù vừa mới cách đây một tiếng thành phố bị thả bom…
Mọi người dân đều đội nón lá, mặc áo trắng và quần đen theo kiểu truyền thống của nông dân VN... Đây đó tôi nhìn thấy những đống đổ nát, nhà mất nóc, và những hố bom...Ngồi trong xe, tôi không thể cất lời. Cảm xúc cuốn tôi đi quá mạnh mẽ - buồn đau và tội lỗi về những điều mà chính phủ của tôi đang làm, khâm phục cách người dân ở đây tiếp tục cuộc sống của họ, và không tin nổi rằng đây không phải là giấc mơ, tôi đang thật sự ở đây, một mình. Khoảng giữa đêm tôi bật dậy giữa giấc ngủ sâu vì tiếng còi báo động xé tan không trung. Một người phục vụ xuất hiện trước cửa phòng khách sạn mang theo cho tôi một chiếc nón bảo hộ. Cô ấy hướng dẫn tôi xuống hầm trú bom phía sau khách sạn. Trên đường xuống cầu thang ra sân sau, tôi nhìn thấy nhân viên khách sạn bình tĩnh làm việc của mình...Đêm ấy còi báo động vang lên thêm hai lần nữa. Đến lần thứ ba thì tôi nằm yên trên giường mình. Sáng hôm sau, bước ra khỏi khách sạn vào lúc 5g30, tôi bất ngờ vì sự nhộn nhịp của thành phố. Tôi không biết có phải mọi người có vẻ vội vã vì bom không rơi vào lúc sáng sớm hay không, hay là vì họ quen với việc vội vã (dĩ nhiên họ cũng đã quen với việc bị đánh bom)…
Những ánh - mắt - không - hận - thù
Chúng tôi lái xe xuyên thành phố đến Bệnh viện hữu nghị Việt-Xô để tôi khám chân… Phiên dịch trong ngày của tôi là Chi. Cô nói với các bác sĩ tôi là người Mỹ, và câu giới thiệu này gây xôn xao xung quanh. Tôi tìm một biểu hiện hằn thù trong mắt những người tôi thấy. Nhưng tuyệt nhiên không có gì. Những ánh - mắt - không - hận - thù ấy ám ảnh tôi suốt nhiều năm sau khi cuộc chiến chấm dứt...Lái xe trong Hà Nội, tôi để ý thấy những ngả phố cực kỳ sạch sẽ: không hề có rác bẩn, không có dấu hiệu nghèo khổ, không có người ăn xin, vô gia cư - và rất ít trẻ em. Cô Chi nói với tôi hầu hết trẻ em đã được tản cư ra ngoại thành… Khả năng thích ứng và uyển chuyển hẳn là một trong những đức tính người dân ở đây rèn luyện được từ thời chống Pháp, hoặc là chống Nhật, hay quân Nguyên Mông.Chúng tôi thu hút sự chú ý của nhiều người trong lúc lái xe… Cô Chi nói những người ngoài phố hỏi tôi từ đâu đến - tôi có phải là người Nga không? Người lái xe hét ra ngoài cửa xe: “Cô ấy là người Mỹ”, và họ thật sự cười vang!“Vì sao họ lại vui khi thấy một người Mỹ?” - tôi nhẹ dạ hỏi Chi. Cô ấy nói: “Cô sẽ không nhìn thấy khẩu hiệu: “Yankee cút về nhà” ở đây đâu. Người dân chúng tôi không chống người Mỹ. Khi chúng tôi nhìn thấy một hố bom, chúng tôi nói đấy là hố bom của Nixon hoặc Johnson, chứ không nói “hố bom Mỹ”...”.Tôi đến thăm Ủy ban tố giác tội ác chiến tranh của Mỹ tại VN, do đại tá Hà Văn Lâu quản lý. Về sau ông trở thành đại sứ VN tại Liên Hiệp Quốc. Đại tá Lâu hướng dẫn tôi đi thăm khu trưng bày... Ông giải thích rằng kể từ khi Nixon trở thành tổng thống, các loại vũ khí (Mỹ) ngày càng trở nên tinh vi và có sức hủy diệt lớn hơn...
Sau đó tôi được đưa đến Bệnh viện Việt -Đức. Tại đó, tôi trò chuyện với bác sĩ Tôn Thất Tùng, người vừa bắt đầu quá trình nghiên cứu về ảnh hưởng của chất độc da cam đối với trẻ sơ sinh dị dạng, con của những phụ nữ sinh sống trong vùng bị rải hóa chất này. “Chúng tôi thấy ngày càng nhiều trẻ sơ sinh dị dạng” - ông nói. Rồi như đọc được ý nghĩ của tôi, ông tiếp: “Vâng, tôi sợ rằng các bạn sẽ chóng nhận ra những điều tương tự trong số binh lính Mỹ”.Tôi biết mình phải làm gì.
-----------------
(*) Trong phần sau của hồi ký, Jane Fonda giải thích việc ngồi trên mâm pháo cao xạ cũng giống như "tôi đang sắp sửa cố gắng bắn hạ máy bay Mỹ...”.
CAM LY lược dịch
Kỳ tới:Cây tre
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận