01/10/2007 10:00 GMT+7

Farid

CORNELIA FUNKE
CORNELIA FUNKE

TTO - Resa đưa Farid vào bếp và băng bó cho đôi chân của cậu. Trông thật khủng khiếp, đôi chân cậu nham nhở vết cứa và máu rỉ ra khắp nơi. Trong khi Resa rửa ráy và dán băng, Farid bắt đầu kể lại mọi chuyện, cái lưỡi đờ đẫn vì kiệt sức.

“Cậu ta bướng bỉnh như một con lừa, tinh ranh như một con khỉ và nhanh lẹ như một con thỏ.”

LOUIS PERGAUD, Cuộc chiến giữa những cái cúc áo

VjX91qjB.jpgPhóng to
TTO - Resa đưa Farid vào bếp và băng bó cho đôi chân của cậu. Trông thật khủng khiếp, đôi chân cậu nham nhở vết cứa và máu rỉ ra khắp nơi. Trong khi Resa rửa ráy và dán băng, Farid bắt đầu kể lại mọi chuyện, cái lưỡi đờ đẫn vì kiệt sức.

Meggie cố hết sức để không nhìn chằm chằm vào cậu quá lâu. Cậu thiếu niên bây giờ vẫn cao hơn cô một chút - mặc dù cô đã lớn lên nhiều trong năm qua, kể từ khi họ gặp nhau lần cuối... trong cái đêm cậu cùng Ngón Tay Bụi bỏ đi, cùng Ngón Tay Bụi và cuốn sách... Cô đã không quên khuôn mặt cậu cũng như không quên cái ngày Mo đọc cậu ra khỏi câu chuyện của cậu. Một ngàn lẻ một đêm. Cô chưa quen một bạn trai nào có cặp mắt đẹp như thế, gần như mắt con gái và cũng đen như mái tóc của cậu, tóc cậu bây giờ để ngắn hơn thuở đó; kiểu tóc khiến cậu trông người lớn hơn. Farid. Meggie cảm nhận rõ, lưỡi cô đang ngân nga nhấm nháp tên cậu - và nhanh lẹ đưa ánh nhìn đi nơi khác, khi cậu ngẩng đầu lên nhìn cô.

Bà Elinor cũng nhìn cậu trân trân, nhưng không một chút ngượng ngùng, với cùng một cung cách thù địch mà bà đã săm soi Ngón Tay Bụi khi người đàn ông ngồi bên bàn bếp và cho con chồn ăn bánh mì cùng thịt hun khói. Bà không cho phép Farid mang con chồn vào nhà. “Cứ liệu hồn, nếu nó ăn một con chim trong vườn của tôi!”, bà đã nói như thế khi họ nhìn con chồn chạy nhanh thoăn thoắt trên lớp sỏi sáng màu, rồi bà đóng kín cửa, như thể Gwin có khả năng mở những cánh cửa khóa kín, dễ dàng như chủ nhân của nó.

Farid vừa nghịch nghịch một hộp diêm vừa kể chuyện.

“Nhìn kìa!”, bà Elinor thì thào vào tai Meggie. “Y hệt như gã ăn diêm. Cháu có thấy là trông nó cũng đã giống gã rồi không?”

Nhưng Meggie không trả lời. Cô không muốn bỏ qua một lời kể nào của Farid. Cô muốn nghe tất cả về chuyến trở về của chú Ngón Tay Bụi, về người đọc sách và con chó địa ngục của anh ta, về cái thứ gì đã gầm gừ đầy đe dọa, thứ rất có thể là một con hổ vừa bước ra từ Dải Rừng Không Có Đường Đi - và những gì mà Basta đã la về phía Farid: Cứ việc chạy đi, rồi tao sẽ tóm được mày, nghe chưa? Tao sẽ tóm được mày, và cả Thằng Ăn Lửa, và cả Lưỡi Thần cùng đứa con gái của nó cũng như cái thằng già đã viết nên những câu chữ khốn nạn! Tao sẽ giết tất cả lũ chúng mày. Lần lượt từng đứa một!

Trong khi Farid kể chuyện, ánh mắt Resa chốc chốc lại lần về với tờ giấy bẩn thỉu mà cậu đặt trên mặt bàn bếp. Người phụ nữ nhìn như thể cô sợ nó; như thể những câu chữ kia cũng có thể kéo cả cô sang bên đó. Sang với Thế Giới Mực. Khi Farid nhắc lại những lời đe dọa của Basta, Resa vòng tay ôm lấy vai con gái và siết chặt. Còn ông Darius im lặng ngồi bên bà Elinor nãy giờ thì đột ngột giơ hai tay che lấy mặt.

Farid không kể nhiều về chuyện cậu làm cách nào đến được đây với đôi chân trần chảy máu. Khi Meggie hỏi, cậu chỉ lẩm bẩm loáng thoáng về một chiếc xe chở hàng đã cho cậu đi nhờ. Cậu đột kết thúc bản báo cáo như thể kho từ đột ngột cạn, và khi cậu ngưng nói thì không gian trong bếp trở thành im lặng, rất im lặng.

Farid đã mang tới một vị khách vô hình. Nỗi sợ.

“Darius, đun cà phê mới đi!”, bà Elinor yêu cầu và sầm mặt quan sát chiếc bàn đã bày bữa tối mà không được ai để ý đến. “Chỗ cà phê ở đây lạnh như đá rồi.”

Darius ngay lập tức nhao vào việc, hăm hở nhanh lẹ như một con chồn đeo kính cận, trong khi bà Elinor săm soi Farid bằng tia mắt băng giá, như bản thân cậu có lỗi vì những thông điệp tồi tệ mà cậu mang tới. Meggie còn nhớ rất rõ, ánh mắt này thuở trước đã khiến cô sợ hãi đến mức nào. “Người đàn bà với cặp mắt đá cuội”, hồi ấy cô đã thầm gọi bà Elinor như thế. Thỉnh thoảng, cái cách gọi này vẫn đúng.

“Chuyện mới hay làm sao!”, bà Elinor phun ra trong khi Resa xoay sang giúp Darius. Bản báo cáo của Farid rõ ràng đã khiến ông bối rối đến mức ông không đo nổi lượng cà phê cho vừa. Khi Resa dịu dàng rút chiếc thìa đo ra khỏi tay Darius, cũng là lúc ông vừa bắt đầu đếm lại lần thứ ba số thìa cà phê bột được đổ vào túi lọc.

“Vậy là Basta đã quay trở lại, với một con dao mới tinh và cái mồm đầy lá bạc hà, tôi đoán như thế. Khốn nạn!” bà Elinor rất thích rủa xả mỗi khi lo lắng hay bực bội. “Cứ làm như thể trong ba đêm lại có một đêm tôi thức dậy mình đẫm mồ hôi vì phải nhìn thấy cái mặt xấu xí của nó trong cơn mơ vẫn còn chưa đủ, đấy là chưa nói đến con dao. Nhưng ta hãy gắng bình tĩnh! Việc là như thế này: mặc dù Basta biết tôi sống ở đâu, nhưng chắc chắn là nó chỉ đi tìm mọi người chứ không đi tìm tôi. Vậy là nếu ở đây, mọi người sẽ được an toàn như ở trong tòa lâu đài của Abraham. Suy cho cùng thì hắn hầu như không thể biết là mọi người đã chuyển đến ở hẳn với tôi, đúng không?” Hể hả như thể với lời nhận định đó, bà vừa có được một suy nghĩ cứu mạng tất cả, Elinor nhìn Resa và Meggie.

Nhưng Meggie lại làm cho mặt bà một lần nữa sầm xuống. “Farid cũng biết như thế”, cô bé nhận định.

“Đúng vậy!”, Elinor gầm gừ, ánh mắt lại chĩa về phía Farid. “Cậu cũng biết. Làm sao mà biết?”

Giọng bà gay gắt đến mức Farid bất giác rụt đầu vào. “Có một người đàn bà lớn tuổi kể cho chú ấy và cháu nghe”, cậu trả lời bằng giọng bối rối. “Chúng cháu đã quay trở lại ngôi làng của Capricorn một lần nữa, sau khi những cô tiên mà chú Ngón Tay Bụi mang theo đã biến thành tro. Chú ấy muốn xem, liệu những người khác có bị chết như vậy không. Cả ngôi làng trống rỗng, không một người nào hết, cả một con chó đi lạc cũng không. Chỉ có tro thôi, chỗ nào cũng là tro xám. Vậy là hai chú cháu đã sang làng bên cạnh để hỏi han xem chuyện gì đã xảy ra, và... ở đó, ở đó chúng cháu đã nghe kể rằng có một người đàn bà to béo có nói về những cô tiên bị chết, và nói rằng cũng may mà những người về sống với bà ấy không bị chết...”

Bà Elinor cáu kỉnh cụp mắt xuống và dùng ngón tay vun những vụn bánh trên đĩa ăn. “Khốn kiếp”, bà lẩm bẩm. “Đúng, có lẽ bà đã nói quá nhiều trong cái cửa hàng mà bà gọi điện cho bọn cháu. Lúc đó bà bối rối quá, sau khi ra khỏi ngôi làng trống không! Làm sao biết được rằng, đám đàn bà lắm mồm lại kể cho chính gã ăn diêm về bà? Đám phụ nữ lớn tuổi nói chuyện với một gã như thế từ bao giờ vậy?”

Hoặc là nói chuyện với một gã như Basta, Meggie thầm nghĩ thêm.

Nhưng Farid chỉ nhún vai và bắt đầu tập tễnh đi lại trong căn bếp rộng mênh mông với cặp chân đã được băng. “Đằng nào thì chú Ngón Tay Bụi cũng nghĩ là tất cả mọi người ở đây”, cậu nói. “Đã có lần hai chú cháu về đây thật, bởi chú ấy muốn xem cô ấy sống có ổn không.” Cậu gật đầu về hướng Resa.

Bà Elinor thở phì ra, vẻ khinh thị. “Cha, ra là gã muốn vậy? Dễ thương thật đấy.” Bà chưa bao giờ ưa nổi Ngón Tay Bụi, và chuyện người này ăn cắp cuốn sách của Mo trước khi biến đi càng khiến cho bà không ưa anh ta nữa. Nhưng Resa thì mỉm cười khi nghe Farid nói như thế, dù đã gắng che giấu điều đó trước ánh mắt Elinor. Meggie còn nhớ rất rõ một buổi sáng khi ông Darius mang lại cho mẹ cô một cuộn đồ nho nhỏ kỳ quặc, thứ mà ông tìm thấy trước cửa nhà - một cây nến, vài cây bút chì và vài hộp diêm, được buộc với những nhánh rau thủy đang nở hoa xanh ngắt. Meggie ngay lập tức biết món quà đó là của ai, và Resa cũng thế.

“Còn bây giờ!”, bà Elinor vừa nói vừa chọc chọc con dao xuống đĩa ăn. “Ta rất mừng là cái gã ăn diêm đó lại biến về nơi của gã. Cứ tưởng tượng đến cảnh gã rình mò quanh ngôi nhà của tôi vào ban đêm! Chỉ đáng tiếc là gã không mang Basta theo về bên ấy.”

Basta - khi Elinor nói cái tên này ra, Resa đột ngột đứng dậy, chạy ra ngoài hành lang và quay trở lại với một chiếc điện thoại. Cô đưa nó về phía Meggie ra ý yêu cầu, và dùng bàn tay còn lại hối hả nói, đến mức Meggie vất vả lắm mới đoán nghĩa được những kí hiệu mà người mẹ vẽ vào không khí. Nhưng cuối cùng thì cô con gái cũng hiểu hết.

Cần phải gọi điện cho Mo. Dĩ nhiên.

Phải cả một vĩnh hằng chờ đợi, ông mới bước tới điện thoại. Chắc ông đang mải làm việc. Mỗi khi đi xa, Mo thường làm việc đến khuya, để nhanh chóng được trở về nhà.

“Meggie?” giọng ông nghe ngạc nhiên. Rất có thể ông nghĩ cô gọi vì chuyện cãi cọ giữa hai cha con, nhưng bây giờ còn ai quan tâm đến trò ngu xuẩn đó nữa?

Phải một lúc lâu sau ông mới hiểu được những từ ngữ hối hả của cô. “Nói chậm thôi, Meggie!”, chốc chốc ông lại nhắc. “Chậm thôi.” Nhưng chuyện đó nói ra thì dễ còn làm thì khó, khi tim đang đập lên đến tận cổ họng người ta và Basta rất có thể đang lại đứng rình trước cổng vườn nhà. Meggie không dám nghĩ tiếp nữa.

Nhưng Mo bình tĩnh đến kỳ quặc - hầu như ông đã chờ đợi rằng quá khứ sẽ một lần nữa đuổi kịp họ. “Các câu chuyện không bao giờ kết thúc, Meggie”, đã có lần ông nói với cô như thế, “ngay cả khi những cuốn sách vốn lừa ta như vậy. Những câu chuyện tiếp diễn, chúng đâu có kết thúc với câu văn cuối cùng, cũng như đâu có bắt đầu với câu văn đầu tiên.”

“Bà Elinor bật hệ thống báo động lên chưa?”, ông hỏi.

“Rồi ạ.”

“Bà ấy báo cho cảnh sát chưa?”

“Chưa. Bà ấy bảo đằng nào bọn họ cũng chẳng tin.”

“Mặc dù vậy, vẫn cứ nên gọi điện cho cảnh sát. Và cần phải miêu tả kỹ ngoại hình của Basta. Mấy bà cháu còn miêu tả được hình dáng của gã, đúng không?”

Câu hỏi mới kỳ quặc! Meggie đã gắng sức quên đi gương mặt Basta, nhưng chắc chắn nó phải hằn vào trí não cô cho đến những năm tháng cuối đời, rõ ràng sắc nét như một tấm ảnh chụp.

“Cẩn thận, Meggie!” Có thể Mo không hoàn toàn bình tĩnh như vẻ ngoài. Giọng ông nghe khác mọi khi. “Đêm nay ba sẽ về nhà. Hãy nói cho Elinor và mẹ con biết. Muộn nhất đến sáng mai là ba lại đứng trước cửa. Hãy đóng mọi cửa ra vào và đóng tất cả các cửa sổ, hiểu chưa?”

Meggie gật đầu - và quên mất là Mo không thể nhìn thấy điều đó qua điện thoại.

“Meggie?”

“Vâng, con hiểu rồi.” Cô cũng gắng sức nói bằng giọng bình tĩnh, dũng cảm. Ngay cả khi cảm giác trong cô không như vậy. Cô sợ, sợ lắm.

“Hẹn con đến sáng mai, Meggie!”

Giọng ông cho cô biết: ông sẽ lên đường ngay lập tức. Và đột ngột cô nhìn thấy con đường đêm, con đường đêm dài dằng dặc, và trong cô xuất hiện một suy nghĩ mới, một suy nghĩ khủng khiếp.

“Còn ba thì sao?”, cô la lên. “Mo! Thế nhỡ Basta rình mò ba?” Nhưng ba cô đã đặt máy xuống từ lâu.

Bà Elinor quyết định đưa Farid tới nơi Ngón Tay Bụi ngủ ngày trước: căn phòng áp mái, nơi những chồng sách xúm xít đứng quanh cái giường nhỏ, cao đến mức người nào nằm trong đó chắc chắc cũng phải mơ rằng bị thứ giấy in chữ kia đè chết. Meggie được trao nhiệm vụ chỉ đường cho Farid. Khi cô chúc cậu ngủ ngon, cậu bạn chỉ lơ đãng gật đầu. Ngồi trên cái giường hẹp, trông cậu thật cô đơn và thảm thương, tuyệt vọng như vào cái ngày Mo đã đọc ra cậu trong ngôi nhà thờ của Capricorn, một cậu bé gầy gò không tên với dải khăn Turban trên mái tóc đen.

Trong đêm hôm đó bà Elinor kiểm tra dàn báo động nhiều lần nữa trước khi đi ngủ. Ông Darius lôi ra cây súng săn mà thỉnh thoảng bà Elinor dùng để bắn lên trời, khi bà nhìn thấy mèo hoang rình bên dưới một tổ chim trong vườn. Khoác trên mình chiếc áo choàng trong nhà màu cam quá rộng được Elinor tặng trong dịp Noel vừa qua, ông Darius ngồi trong chiếc ghế bành trong sảnh, đặt khẩu súng vào lòng, nhìn trân trân cửa ra vào với nét mặt quả quyết. Nhưng khi bà Elinor xuống xem lại dàn báo động lần thứ hai thì ông đã ngủ thật sâu.

Mãi sau đó Meggie vẫn chưa ngủ. Cô nhìn khoang kệ vốn là chỗ để đám sổ ghi chép, vuốt tay trên những miếng ván gỗ trống trơn, cuối cùng cô quỳ xuống trước chiếc hòm sơn đỏ mà Mo đã đóng cho cô cách đây rất lâu để đựng những cuốn sách cô ưa thích. Đã nhiều tháng nay cô chưa mở nó ra. Người ta không thể để thêm một cuốn sách nào vào đây, và bây giờ thì nó đã quá nặng, không thể mang theo trong những chuyến đi. Vì thế mà bà Elinor đã tặng cô một chiếc tủ đựng sách, dành cho những cuốn ưa thích mới. Tủ sách ngay bên giường của Meggie, với những khoảng cửa kính và những hình chạm trổ uốn lượn lan ra trên nền gỗ thẫm màu, như những lá những cành đó không hề quên rằng đã có thời lần gỗ này sống động. Những khoang tủ sau lớp kính trông đã khá đầy đặn, bởi bây giờ không chỉ có Mo tặng Meggie sách, mà còn có thêm mẹ Resa và bà Elinor. Cả ông Darius cũng thỉnh thoảng mang đến cho cô một cuốn. Nhưng những người bạn cũ, những người bạn sách mà Meggie đã thân quen từ trước khi cô đến ở trong nhà bà Elinor thì vẫn tiếp tục chiếm chỗ trong cái hòm nọ, và khi cô mở nắp hòm nặng trĩu ra, Meggie có cảm giác như những giọng nói hầu như đã bị lãng quên lại chen chúc phả về phía cô, như thể cô đang nhìn những gương mặt thân quen. Tất cả chỗ sách này mới được đọc nhiều làm sao...”Con có thấy kỳ lạ không, một cuốn sách được đọc nhiều có thể dày lên đến bao nhiêu?”, Mo đã hỏi như thế khi hai cha con thăm lại đám bạn sách trong ngày sinh nhật gần đây nhất của Meggie. “Như thể cứ sau mỗi lần đọc là lại có cái gì mới mẻ được dán thêm vào giữa những trang giấy. Tình cảm, suy nghĩ, âm thanh, mùi vị... và nếu sau này nhiều năm trời con lại giở trang trong cuốn sách, thì con sẽ phát hiện thấy bản thân mình trong đó, một chút trẻ trung hơn, một chút khác biệt, như cuốn sách đã gìn giữ con giống cách gìn giữ một bông hoa ép khô, vừa thân quen vừa xa lạ.”

Một chút trẻ trung hơn, đúng vậy. Meggie cầm lên tay một trong những cuốn sách nằm trên cùng và lật trang. Cô đã đọc nó ít nhất một tá lần. Đây là những đoạn văn, những cảnh kịch được cô yêu thích nhất hồi lên tám, còn đây là những câu, đoạn được cô gạch chân hồi lên mười, bằng một cây bút màu đỏ, bởi cô thấy gạch chân bằng màu đỏ đẹp tuyệt. Cô vuốt ngón tay dọc những đường kẻ ngoằn ngoèo - ngày đó không có Resa, không có Elinor, không có Darius, chỉ một mình Mo... không có nỗi khao khát về những cô tiên xanh ngắt, không có hồi ức về một gương mặt sẹo, không có con chồn với cặp sừng và một cậu Farid luôn đi chân trần, không có một gã Basta cùng lưỡi dao của gã. Đã có một cô bé Meggie khác đọc trong cuốn sách này, khác quá đi... và cô Meggie đó sẽ ở lại giữa những trang giấy, được gìn giữ như một kỷ vật.

Thốt ra một tiếng thở dài, Meggie gập cuốn sách lại và đặt nó về với những cuốn khác. Phòng bên có tiếng chân Resa đang đi đi lại lại. Có phải cũng giống như Meggie, chốc chốc mẹ cô lại nhớ đến lời đe dọa mà Basta đã la theo bước chân Farid? Mình phải sang với mẹ, Meggie nghĩ. Ngồi bên nhau thì nỗi sợ hãi có lẽ chỉ còn một nửa. Nhưng đúng khi cô nhỏm dậy thì tiếng bước chân Resa câm bặt, phòng bên trở thành yên ắng, yên ắng như giấc ngủ. Có lẽ ngủ không phải là một ý kiến tồi bây giờ. Mo chắc chắn sẽ không về sớm hơn chỉ bởi vì Meggie thức chờ ông. Giá mà cô có thể gọi điện cho ông, nhưng ông luôn quên bật điện thoại di động của mình lên.

Meggie đóng hòm sách thật nhẹ nhàng, như sợ tiếng động sẽ đánh thức Resa, rồi tắt những cây nến mà cô đã châm lên vào buổi tối, bất chấp bà Elinor luôn ngăn cấm. Đúng lúc cô vừa tuột chiếc áo thun qua đầu thì có tiếng gõ vào cửa phòng cô - thật khẽ khàng, thật khẽ. Cô mở cánh cửa, trong lòng tin chắc sẽ nhìn thấy mẹ, bởi Resa không ngủ được, nhưng đó lại là Farid - một cậu Farid mặt đỏ lựng lên khi thấy cô chỉ mặc áo lót. Cậu lắp bắp một lời xin lỗi và trước khi Meggie kịp đáp lời thì cậu đã tập tễnh nhao đi trên cặp chân trần được dán băng. Suýt nữa thì Meggie quên mặc lại áo thun trước khi đuổi theo cậu.

“Có chuyện gì thế?”, cô lo lắng thì thào khi vẫy cậu cùng cô quay trở lại phòng. “Bạn nghe thấy cái gì bên dưới kia sao?”

Nhưng Farid lắc đầu. Cậu cầm trong tay mẩu giấy đó, tấm vé tàu quay trở lại của Ngón Tay Bụi, theo cách mà bà Elinor đặt tên trong đay nghiến. Cậu chần chừ bước theo Meggie vào phòng cô. Cậu nhìn quanh như một người luôn thấy thấp thỏm khi ở trong một không gian đóng kín. Chắc là kể từ khi Ngón Tay Bụi biến mất không dấu vết, cậu thường xuyên ở ngoài trời, ngày cũng như đêm.

“Xin lỗi!”, cậu vừa lắp bắp vừa cúi nhìn những ngón chân trần của mình. Có hai dải băng bị tuột ra. “Đã quá muộn rồi, nhưng mà -” Lần đầu tiên cậu nhìn thẳng vào mắt Meggie và đỏ lựng mặt lên. “Orpheus có nói rằng, anh ta không đọc hết”, cậu chần chừ nói tiếp. “Anh ta đã bỏ qua những câu văn có thể đưa tôi sang đó. Anh ta đã chủ tâm làm như thế, nhưng tôi phải cảnh báo cho chú Ngón Tay Bụi, và vì vậy...”

“Và vì vậy thì sao?” Meggie đẩy về phía cậu chiếc ghế vốn luôn đứng bên bàn viết, còn bản thân cô ngồi lên bậu cửa sổ. Farid ngồi xuống ghế, cũng chần chừ như khi cậu bước vào phòng cô.

“Bạn hãy đọc tôi sang bên đó, làm ơn đi!” Cậu lại chìa mảnh giấy bẩn thỉu đó ra với vẻ nài nỉ tha thiết trong hai con mắt đen nhánh, tha thiết đến mức Meggie không biết phải nhìn đi đâu. Làn mi cậu mới rợp dài làm sao, mi cô chắc không đẹp được bằng một nửa. “Làm ơn! Chắc chắn là bạn làm được!”, cậu lắp bắp. “Đêm ấy... trong làng của gã Capricorn... tôi còn nhớ rất rõ - bạn cũng chỉ có một tờ giấy thôi!”

Ngày ấy trong ngôi làng của gã Capricorn. Mãi đến hôm nay tim Meggie vẫn còn đập lồng lên mỗi lần cô nghĩ tới nó: cái đêm mà cô đã đọc Cái Bóng sang đây để rồi vẫn không thể ra lệnh cho nó giết Capricorn - cho tới khi Mo nhảy vào làm giúp cô.

“Orpheus đã viết những câu này, chính gã đã nói như thế! Gã ấy không đọc chúng lên thôi, nhưng mà chúng ở đây, trên giấy này! Dĩ nhiên trên đó không có tên tôi, nếu ghi tên tôi thì chuyện sẽ không có kết quả.” Farid nói mỗi lúc một hối hả hơn. “Orpheus nói rằng, đó mới chính là bí mật: Người ta phải gắng chỉ dùng những từ cũng có trong cuốn sách, nếu muốn thay đổi câu chuyện của nó.”

“Anh ta nói như thế sao?” Tim Meggie gần như ngừng đập, như thể nó vừa va phải những lời Farid nói. Người ta phải gắng chỉ dùng những từ cũng có trong cuốn sách... có phải vì thế mà cô không thể đọc được ra một thứ gì, tuyệt đối không một thứ gì từ những câu chuyện của Resa, bởi cô đã dùng những câu chữ không có trong Tim Mực? Hay nguyên nhân chỉ nằm ở chỗ là cô chưa hiểu về nghề viết văn?

“Đúng. Orpheus rất tự kiêu về tài đọc sách của gã.” Farid nhổ cái tên đó ra như người ta nhổ hạt mận. “Nhưng thật ra gã đọc không hay bằng một nửa bạn và ba bạn, nếu bạn hỏi thật tôi.”

Có lẽ thế, Meggie nghĩ, nhưng chính anh ta đã đưa được Ngón Tay Bụi quay trở lại. Và anh ta đã tự viết nên những câu chữ cho chuyện này. Kể cả Mo lẫn mình đều không làm được điều đó. Cô cầm lấy tờ giấy của Farid với những dòng chữ của Orpheus. Chữ viết rất khó đọc, nhưng đó là một thứ chữ đẹp, uốn lượn đến kỳ quặc và rất độc đáo.

“Ở vị trí nào thì chú Ngón Tay Bụi đã biến mất?”

Farid nhún vai. “Mình không biết”, cậu chán nản lầm bầm.

Dĩ nhiên, cô đã quên mất là cậu không biết đọc. Meggie dùng ngón tay lần theo câu văn đầu: Ngón Tay Bụi quay trở lại vào một ngày tràn ngập hương dâu rừng và hương nấm.

Trầm ngâm, cô hạ tờ giấy xuống. “Không được”, cô nói. “Chúng ta thậm chí không có được cuốn sách. Không có sách thì làm sao mà làm nổi?”

“Nhưng Orpheus có dùng sách đâu! Chú Ngón Tay Bụi đã lấy đi của gã cuốn sách trước khi gã đọc tờ giấy này!” Farid đẩy ghế ra sau và bước đến bên cô. Sự gần gũi làm Meggie thấy chòng chành, cô khăng khăng không muốn hiểu lý do.

“Không thể thế được!”, cô lẩm bẩm.

Nhưng rõ ràng chú Ngón Tay Bụi đã biến mất. Chỉ vài câu văn được viết bằng tay đã mở ra cho chú ấy cánh cửa giữa những câu chữ, cánh cửa mà Mo đã bao lần rung lắc nhưng chỉ uổng công. Mà đâu phải ông Fenoglio, tác giả của cuốn sách, đã viết nên những câu chữ đó, mà là một người lạ... một người lạ với cái tên kỳ quặc. Orpheus.

Meggie biết nhiều hơn đa phần những người khác về những gì đang chờ đằng sau các câu từ. Bản thân cô cũng đã mở ra các cánh cửa, đã gọi ra những thực thể sống từ những trang sách đã ngả màu vàng - và đã chứng kiến cảnh ba cô đọc ra Farid, người hiện giờ đang đứng bên cô, từ một câu chuyện cổ tích xứ Ả Rập. Nhưng có vẻ như ông Orpheus nọ còn biết nhiều hơn cô, nhiều hơn rất nhiều, nhiều hơn cả Mo, người mà Farid đến giờ vẫn gọi là Lưỡi Thần... và đột ngột Meggie thấy sợ những câu chữ được viết trên tờ giấy đó. Cô đặt nó lên bàn viết như thể nó vừa đốt cháy tay cô.

“Làm ơn! Ít nhất bạn cũng thử một lần đi!” Giọng Farid nghe như lời cầu xin. “Thế nếu Orpheus đã lại đọc Basta sang bên đó rồi thì sao? Phải báo cho chú Ngón Tay Bụi biết là cả hai ở cùng một nơi! Giờ đây chắc chú ấy cứ tưởng đã được an toàn trong thế giới của mình, không phải e ngại Basta nữa!”

Meggie vẫn còn nhìn trân trân xuống những câu chữ của Orpheus. Trông chúng thật đẹp, đẹp mê li. Meggie cảm nhận đầu lưỡi cô đang muốn nếm chúng. Chỉ thiếu một chút là cô đã bắt đầu đọc. Hoảng hốt, cô đưa tay áp miệng.

Orpheus.

Dĩ nhiên cô biết cái tên này cùng câu chuyện bao quanh nó như một tấm lưới dệt từ bao nụ hoa và cây gai. Bà Elinor đã cho cô cuốn sách kể lại câu chuyện đó tài tình nhất.

Hỡi Orpheus, người đang được than khóc đớn đau bởi những đàn chim đàn thú hoang, bởi những triền đá hoang vu và dải rừng đã bao lần bước theo giọng ca anh. Cây trút lá xuống, để đầu trần tiếc thương anh.

Cô nhìn Farid. “Anh ta bao nhiêu tuổi?”

“Orpheus?”, Farid nhún vai. “Hai mươi, hai mươi lăm, làm sao mình biết được? Rất khó đoán. Trông mặt gã ta như mặt trẻ con.”

Trẻ đến thế ư? Những câu chữ trên giấy này không ra vẻ là tác phẩm của một người đàn ông trẻ tuổi. Chúng vang lên như thể hiểu biết nhiều.

“Làm ơn!” Farid vẫn còn nhìn cô. “Bạn sẽ thử, đúng không?”

Meggie nhìn ra ngoài. Cô bất chợt phải nghĩ đến những tổ tiên trống rỗng, những người thủy tinh đã biến mất và nhớ đến một thứ mà Ngón Tay Bụi đã nói với cô trước đây cả một thời gian dài: Thỉnh thoảng, vào buổi sáng khi ta ra giếng rửa mặt, có những cô tiên nhỏ tí teo bay lượn trên mặt nước, chẳng lớn hơn chuồn chuồn của các anh là bao nhiêu và xanh ngả màu tím của hoa violet. Họ rất thích bay vào tóc ta, thỉnh thoảng họ còn nhổ vào mặt ta nữa. Họ vốn không phải là những kẻ thân thiện dễ thương, nhưng tối đến thì cả đàn óng ánh như đom đóm.

“Được”, cô nói, giọng nghe xa lạ như một người khác đang trả lời Farid. “Được, mình sẽ thử. Nhưng đầu tiên chân bạn phải lành lại đã. Cái thế giới mà mẹ mình kể không phải là nơi dành cho người đi khập khễnh đâu.”

“Ngớ ngẩn, chân mình ổn mà!” Farid đi đi lại lại trên nền thảm mềm mại như để chứng minh. “Theo mình thì bạn cứ thử ngay bây giờ!”

Nhưng Meggie lắc đầu. “Không!”, cô quả quyết khẳng định. “Đầu tiên mình phải học cách đọc nó sao cho trôi chảy. Chữ này không dễ đọc, mà còn bị nhòe một số chỗ, nên chắc mình sẽ phải chép lại. Người tự xưng là Orpheus đó không nói dối đâu. Anh ta có viết một chút về bạn, nhưng mình chưa tin chắc rằng như vậy là đủ. Mà ngoài ra...”, cô gắng sức giữ giọng như nói chuyện vặt, “... nếu mình làm thế, thì mình cũng muốn đi cùng.”

“Cái gì?”

“Đúng thế! Tại sao không?” Meggie không thể ngăn được, giọng nói lộ rõ, ánh mắt kinh hoàng của cậu khiến cô bực bội đến mức nào.

Farid không trả lời.

Chẳng lẽ cậu không hiểu là cô cũng muốn nhìn thấy tất cả thứ đó, những thứ mà chú Ngón Tay Bụi và mẹ cô đã kể trong giọng nói hay nét mặt mềm ra vì khao khát nhớ nhung: những đàn tiên bay trên cỏ, những thân cây cao tít tắp đến mức người ta tin rằng mây vướng vào cành chúng, Dải Rừng Không Có Đường Đi, những người diễn trò, lũy thành của ông Vua Mỡ cũng như những tháp canh bằng bạc của Lũy Thành Đêm, phiên chợ tại Ombra, những lưỡi lửa biết nhảy múa, những cái ao biết thì thầm với những gương mặt tiên nước nhìn lên...

Không, Farid không hiểu. Chắc là cậu chưa từng một lần có cảm giác đó, cảm giác khao khát về một thế giới hoàn toàn khác, cũng như cậu chưa từng có cảm giác nhớ nhà, cảm giác xé nát trái tim Ngón Tay Bụi. Farid chỉ muốn một điều: Cậu muốn đến với Ngón Tay Bụi, muốn cảnh báo chú về lưỡi dao của Basta và muốn ở lại bên người đàn ông đó. Cậu là cái bóng của Ngón Tay Bụi. Đó là vai kịch cậu muốn diễn, dù là trong câu chuyện nào.

“Quên đi! Bạn không đi cùng được!” Không nhìn cô, cậu tập tễnh đi lại chiếc ghế mà Meggie đã đẩy sang cho cậu, ngồi lên đó và gỡ ra khỏi chân những miếng băng mà Resa vất vả lắm mới dán lên được. “Chẳng ai có thể tự đọc mình vào một cuốn sách. Kể cả Orpheus cũng không làm nổi! Gã đã kể điều đó cho chú Ngón Tay Bụi nghe: Gã đã thử rất nhiều lần, nhưng không được.”

“Thế sao?” Meggie gắng sức giữ một giọng nói tự tin, tự tin hơn so với tâm trạng cô lúc này. “Chính bạn đã nói, tôi đọc truyện hay hơn anh ta. Rất có thể tôi làm được!” Nhưng mình đã không biết viết như anh ta, cô thêm vào trong suy nghĩ.

Farid ném cho cô một cái nhìn băn khoăn, trong khi tay đút đám băng dán vào túi quần. “Nhưng ở đó nguy hiểm”, cậu nói. “Đặc biệt là cho một cô thiếu...” Cậu không nói hẳn từ đó ra. Thay vào đó, cậu săm soi những ngón chân chảy máu của mình.

Ngu ngốc. Meggie cảm nhận rõ nỗi bực bội để lại vị đắng trên lưỡi cô. Cậu ta nghĩ cái gì mới được chứ? Chắc chắn là cô biết về thế giới đó nhiều hơn cậu, cái thế giới mà cô cần phải đọc cậu sang. “Tôi biết chỗ đó nguy hiểm”, cô cáu kỉnh nói. “Và hoặc tôi sang cùng hoặc tôi không đọc. Cân nhắc đi. Và bây giờ thì để cho tôi ở một mình. Tôi phải nghĩ đã.”

Farid ném cái nhìn cuối cùng xuống tờ giấy có chứa những câu chữ của Orpheus, sau đó đi ra cửa. “Bao giờ thì bạn muốn thử?”, cậu hỏi trước khi bước ra hành lang. “Ngày mai?”

“Có thể”, Meggie chỉ trả lời như thế.

Thế rồi cô đóng cửa và chỉ còn lại một mình cùng những câu chữ của Orpheus.

CORNELIA FUNKE
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên