
Dư nợ cho vay của các công ty chứng khoán thuộc ngân hàng có quy mô lớn so với thị trường chung - Ảnh: B.K.
Dư nợ margin thị trường chứng khoán hiện đã ở khoảng gần 300.000 tỉ đồng.
Đua cạnh tranh lãi suất margin
Chứng khoán Shinhan Securities (SSV) đưa ra chương trình miễn lãi 0% trong 2 tháng cho hạn mức 500 triệu đồng, lãi suất 6,8% trong 4 tháng tiếp theo cho hạn mức đến 10 tỉ đồng. Còn Chứng khoán SSI tung lãi suất 9%, miễn lãi T+7 cho khách hàng lớn. Trong khi, VPBankS chào lãi suất margin chỉ từ 6,6%/năm...
Nhìn chung, các chương trình miễn lãi T+ cho giao dịch lướt sóng đang trở thành "vũ khí" cạnh tranh. Còn các gói lãi suất thấp thường đi kèm điều kiện khắt khe: vay trong danh mục cổ phiếu chỉ định, áp dụng cho khách hàng mới, hoặc giới hạn dư nợ.
Theo ông Nguyễn Thế Minh, giám đốc khối nghiên cứu và phát triển khách hàng cá nhân của Chứng khoán Yuanta Việt Nam, mặt bằng lãi suất margin thực tế dao động 11-12%/năm.
"Dư địa cạnh tranh bằng hạ lãi suất không còn nhiều, vì công ty chứng khoán (CTCK) khó hy sinh thêm lợi nhuận để hạ lãi suất", ông Minh nói. Thậm chí, ông Minh cho rằng với bối cảnh thị trường đang liên tục tăng nóng và nhiều CTCK đã áp sát giới hạn cho vay, lãi suất margin có thể bật tăng trong thời gian tới.
Hầu hết các ngân hàng lớn đều sở hữu CTCK, như Vietcombank, Vietinbank, BIDV, Techcombank, VPBank...
Lý do, tổng giám đốc một CTCK cho biết so với ngân hàng, tỉ suất lợi nhuận thuần từ lãi (NIM) của CTCK vượt trội. Với khả năng cho vay margin gấp 2 lần vốn chủ sở hữu, thực tế CTCK có thể đạt NIM 6-7%. Trong khi đó, mức NIM của ngân hàng là 3-4% dù có khả năng cho vay gấp 7-10 lần vốn chủ sở hữu.
Ông này giải thích: NIM cho vay margin tại các CTCK cao hơn do chi phí huy động vốn qua kênh vay ngân hàng hoặc phát hành trái phiếu chỉ khoảng 5-7%/năm, nhưng lãi suất cho vay đối với khách hàng phổ biến ở mức 11-14%/năm, tạo ra biên lợi nhuận cao hơn. Vị tổng giám đốc thừa nhận họ chịu sức ép cạnh tranh rất lớn từ các CTCK có ngân hàng "hậu thuẫn" đang nổi lên rất mạnh mấy năm qua.
"Miếng bánh ngon" từ mảng cho vay margin nên các ngân hàng tăng sở hữu CTCK ngày càng phổ biến. Ông Phan Duy Hưng, CFA, MBA, giám đốc - chuyên gia phân tích cao cấp VIS Rating - cho biết trong sáu tháng qua, một số ngân hàng tư nhân đã công bố kế hoạch mua cổ phần (như Sacombank, SeABank, MSB) hoặc hợp tác chiến lược (như OCB, VIB) với các CTCK.
Cẩn thận rủi ro chung
Trong cuộc đua giành thị phần môi giới và cho vay ký quỹ, các CTCK trực thuộc ngân hàng đang thể hiện lợi thế vượt trội so với khối CTCK độc lập. Với nền tảng vốn điều lệ lớn và khả năng huy động vốn thuận lợi nhờ hậu thuẫn từ ngân hàng mẹ, nhóm công ty này có điều kiện mở rộng quy mô cho vay margin với lãi suất cạnh tranh, từ đó góp phần định hình lại cục diện thị trường.
Theo ông Phan Duy Hưng, trong ba năm qua, các CTCK liên kết ngân hàng tư nhân đã vươn lên vị thế đáng kể trong top 30 về quy mô tài sản nhờ các đợt tăng vốn lớn. Thị phần cho vay ký quỹ của các công ty này cũng tăng từ 19% năm 2022 lên 30% năm 2024.
"Các công ty liên kết với ngân hàng thường tận dụng vốn và mạng lưới khách hàng của ngân hàng mẹ để mở rộng thị phần môi giới và phân phối trái phiếu - một lợi thế mà các CTCK độc lập khó có thể cạnh tranh. Do đó, họ sẽ tiếp tục dẫn dắt tăng trưởng lợi nhuận ngành trong 12-18 tháng tới", ông Hưng nói. Ngược lại, tăng trưởng lợi nhuận của các CTCK có vốn nước ngoài và quy mô nhỏ trong nước sẽ chậm hơn.
Cũng theo giám đốc - chuyên gia phân tích cao cấp VIS Rating, các ngân hàng và CTCK liên kết thường hợp tác chặt chẽ để cho vay các doanh nghiệp lớn - chủ yếu trong lĩnh vực bất động sản và năng lượng tái tạo - thông qua các khoản cho vay khách hàng, đầu tư trái phiếu và/hoặc cho vay ký quỹ.
Một số doanh nghiệp gần đây đã vướng vào các vấn đề pháp lý liên quan đến dự án và/hoặc chậm trả trái phiếu doanh nghiệp. Ông Hưng cảnh báo việc các ngân hàng và CTCK tập trung tín dụng cao vào các doanh nghiệp lớn đang làm gia tăng rủi ro hoạt động và sẽ dễ bị tổn thương trước các rủi ro tín dụng liên quan đến từng khách hàng lớn, từ đó có thể dẫn đến tình huống rút tiền hàng loạt từ khách hàng.
Cùng quan điểm, ông Nguyễn Thế Minh nói mô hình CTCK truyền thống dễ "lép vế" trước các ngân hàng do chưa có các quy định về ngân hàng đầu tư (investment banking) như các quốc gia phát triển.
Ông Phan Duy Hưng cho rằng hoạt động cho vay truyền thống của ngân hàng đang chịu áp lực cạnh tranh gay gắt, biên lợi nhuận mỏng hơn và hạn mức tăng trưởng tín dụng. Ba tháng đầu năm 2025, biên lãi ròng (NIM) của các ngân hàng giảm 35 điểm cơ bản xuống còn 2,9% so với cùng kỳ năm trước.
Nên ngày càng nhiều ngân hàng tăng các dịch vụ môi giới chứng khoán và thị trường vốn - những mảng có biên lợi nhuận cao hơn nhằm củng cố và phát triển hệ sinh thái tài chính.
Các ngân hàng vẫn tin rằng mở rộng sang lĩnh vực này nhìn chung cải thiện khả năng sinh lời. Năm 2024, một số CTCK liên kết với ngân hàng như TCBS đã đóng góp đáng kể - gần 20% - vào lợi nhuận của ngân hàng mẹ. Tuy nhiên, "việc đầu tư vào công ty con trong lĩnh vực chứng khoán có thể làm giảm tỉ lệ an toàn vốn trong ngắn hạn", ông Hưng cảnh báo.
"Có ngân hàng đứng sau thường có lợi thế vốn giá rẻ"
Ông Nguyễn Đức Thông - tổng giám đốc Chứng khoán SSI - thừa nhận riêng về mảng cho vay ký quỹ, đúng là các CTCK có ngân hàng đứng sau thường có lợi thế vốn giá rẻ.
"Nhưng những công ty truyền thống như SSI cũng có thế mạnh riêng. Điều này giúp doanh nghiệp có thể huy động được nguồn vốn cần thiết với chi phí hợp lý, tối ưu hóa hiệu quả sử dụng vốn và duy trì tăng trưởng margin ở mức cao", ông Thông nhấn mạnh.
Cẩn thận rủi ro "ngân hàng ngầm"

Các công ty chứng khoán chuyển sang đẩy mạnh các chương trình ưu đãi lãi suất margin để thu hút nhà đầu tư - Ảnh: QUANG ĐỊNH
Hoạt động margin của CTCK thường bị gắn mác theo thuật ngữ quốc tế là "shadow banking" (ngân hàng ngầm), phần nào gây hiểu lầm về mức độ rủi ro. Thực tế, "shadow banking" là ngân hàng song hành, cung cấp vốn nhanh qua CTCK, quỹ đầu tư.
Ông Nguyễn Thế Minh nhấn mạnh: "Shadow banking không xấu như cách gọi. Khi tín dụng ngân hàng bị siết bởi các quy định về lãi suất và dư nợ, sở hữu các CTCK giúp cho vay nhanh, dễ xử lý tài sản đảm bảo và đặc biệt có lãi suất cao. Giải ngân margin nhanh hơn hồ sơ tín dụng và CTCK có thể xử lý margin ngay khi giá trị tài sản đảm bảo không đạt yêu cầu.
Các vụ giải chấp DIG, PDR trong cú sốc thuế quan vừa qua là bằng chứng cho thấy khả năng quản trị rủi ro của các CTCK.
Tuy nhiên, cần lưu ý rủi ro "co cụm" của margin vào nhóm cổ phiếu tài chính (ngân hàng, chứng khoán) sẽ khiến thị trường kém lành mạnh. Thay vào đó, margin nên lan tỏa tới nhiều nhóm ngành hơn nữa.
Ông Minh nhận định: "Phát triển tài sản số, như token hóa tài sản (RWA), sẽ mở ra dư địa phát triển mới cho hoạt động investment banking tại các CTCK hoạt động theo mô hình truyền thống và tránh được sự lép vế trước các ngân hàng". Nhưng đồng thời "cơn sốt mở sàn" sẽ thúc đẩy ngân hàng gấp rút sở hữu và rót vốn vào CTCK hơn trong thời gian tới sau khi 5 sàn giao dịch được cấp phép.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận