18/04/2006 06:46 GMT+7

Đời ông chủ Kỳ 6: "Nam du" tìm luật

QUANG THIỆN
QUANG THIỆN

TT - Năm 1990, Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân ra đời, chính thức thừa nhận về pháp lý đối với thành phần kinh tế tư nhân. Hai văn bản này được xem như bản “đăng ký kết hôn” giữa thành phần kinh tế tư nhân với đời sống kinh tế VN. Nhưng để có được hai luật này, những người soạn thảo đã đi một con đường dò dẫm, tìm cho được một vai trò lớn hơn cho kinh tế tư nhân.

AmJ5cjcF.jpgPhóng to

Các cửa hàng của Công ty Tổng hợp thương nghiệp hợp tác xã quận 1 tại chợ Bến Thành (TP.HCM) bán hàng phục vụ Tết Ất Sửu 1985 (ảnh chụp tháng 2-1985) - Ảnh: N.C.T.

TT - Năm 1990, Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân ra đời, chính thức thừa nhận về pháp lý đối với thành phần kinh tế tư nhân. Hai văn bản này được xem như bản “đăng ký kết hôn” giữa thành phần kinh tế tư nhân với đời sống kinh tế VN. Nhưng để có được hai luật này, những người soạn thảo đã đi một con đường dò dẫm, tìm cho được một vai trò lớn hơn cho kinh tế tư nhân.

Kỳ 1: Khởi sự từ xà bông không tên

Kỳ 2: Tìm lại 100 lượng vàng đã mất

Kỳ 3: Kê biên tài sản

Kỳ 4: "Nhảy rào "làm y tế tư nhân

Kỳ 5: "Tuần trăng mật"

Dò tìm từng bước

Ông Nguyễn Đình Cung, trưởng Ban chính sách kinh tế vĩ mô (Viện Quản lý kinh tế trung ương - CIEM), là một trong những người trực tiếp tham gia và đi suốt chặng đường hình thành của tất cả các luật dành cho kinh tế tư nhân ở VN.

Vào cuối thập kỷ 1980, kinh tế kế hoạch đã đến hồi kết nhưng để thay thế nó thì chưa có những “linh kiện”, hình mẫu cụ thể. Công việc của những người làm chính sách lúc đó là mò mẫm tìm, nhưng phải thật nhanh. Lúc đó đã có Luật đầu tư nước ngoài, nhưng với khu vực kinh tế tư nhân (thường gọi là kinh tế ngoài quốc doanh), mọi thứ vẫn là con số không.

Năm 1988, ông Cung được lãnh đạo CIEM phân công tham gia tổ nghiên cứu soạn thảo một sắc luật về kinh tế ngoài quốc doanh. Tổ gồm cán bộ của viện, của Văn phòng Chính phủ và Bộ Tư pháp, có khá nhiều cán bộ giàu kiến thức, kinh nghiệm.

Tuy nhiên, trong lĩnh vực luật kinh tế theo mô hình thị trường, nhìn chung tất cả đều chưa biết gì. Tất cả đối mặt với nhiều câu hỏi: khuôn khổ pháp lý về kinh doanh rất rộng, vậy mục tiêu cụ thể là gì? Có bao nhiêu vấn đề cần giải quyết? Cái gì có thể làm được trong điều kiện hiện nay?...

Trước mắt là phải đặt tên luật để hình dung công việc. Luật về kinh doanh? Quá rộng, không thể làm được. Luật về những nguyên tắc cơ bản trong kinh doanh? Cũng không ổn. Luật về tổ chức các xí nghiệp ngoài quốc doanh? Đặt tên này mọi người trong tổ thấy chưa ổn về từ ngữ.

Tức là chỉ nên giới hạn ở việc qui định về cách thức thành lập, tổ chức của các xí nghiệp. Không có ai hướng dẫn, giảng dạy, họ phải ra sức tìm tài liệu. Các thư viện, tủ sách ở Hà Nội không có một tài liệu gì về kinh tế ngoài quốc doanh. Hầu hết các nhà nghiên cứu cũng không có kiến thức về vấn đề này.

Một số người được học từ thời Pháp cũng còn lại rất ít và đã mai một nhiều. Các trường cũng không giảng dạy về kinh tế tư nhân. Một sáng kiến nêu ra: vào miền Nam tìm tài liệu về luật kinh tế chế độ cũ xem sao? CIEM lập tức liên hệ với một đơn vị “ngành dọc” là Viện Kinh tế TP.HCM nhờ giúp đỡ.

“Lách” qui định

Tổ soạn thảo cử đoàn cán bộ, trong đó có cả ông Cung, vào TP.HCM gặp ông Lâm Võ Hoàng, ông Phan Chánh Dưỡng, ông Nguyễn Ngọc Bích... - những người từng học, từng nghiên cứu về luật kinh doanh trước năm 1975 và trực tiếp soạn thảo các bộ luật kinh tế cho chế độ cũ. Họ sẵn sàng trả lời mọi câu hỏi tham vấn.

Nhưng cuộc làm việc không sôi nổi lắm bởi một bên không biết nên hỏi sâu những gì, một bên không tin rằng VN sẽ có một sắc luật của nền kinh tế thị trường. Điều đáng quí là đoàn công tác đã tìm được một số bộ luật cũ (Luật thương mại Trung phần ban hành thời Pháp, áp dụng cho miền Trung; Luật thương mại của chế độ cộng hòa...), một số tài liệu tiếng Anh, tiếng Pháp nghiên cứu về luật công ty của một số quốc gia tư bản....

Trở về Hà Nội cũng là lúc không còn nhiều thời gian và cũng đã “hết cửa” tìm tư liệu nên tổ soạn thảo bắt tay vào viết ngay. Ông Nguyễn Tuân và ông Cung trực tiếp soạn thảo. Sau nhiều phương án, cuối cùng họ chọn tên luật là Luật công ty.

Chừng hai tháng sau tác phẩm hoàn thành, nhưng xem lại thì thấy dài tới hàng trăm điều, nhiều phần chưa biết bao giờ mới áp dụng ở VN. Cuối cùng dự luật được cắt gọn còn hơn 60 điều. Tác phẩm nộp cấp trên duyệt rồi trình Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ). Đến khi luật trình Quốc hội, đại biểu Phan Hiền - lúc đó là bộ trưởng Bộ Tư pháp - đề nghị nên tách làm hai luật.

Luật công ty để áp dụng cho công ty cổ phần, công ty TNHH vì nó có tên là... công ty. Luật doanh nghiệp tư nhân áp dụng cho những đơn vị có thể có tên khác với từ công ty. Thế là có hai luật.

Thảo luận ở Hội đồng Nhà nước cũng không có phức tạp đáng kể nhưng nảy sinh một vấn đề khi đại biểu Ngô Bá Thành, chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật, nói rằng hiện hiến pháp (áp dụng hiến pháp năm 1982) không thừa nhận kinh tế tư nhân, không thừa nhận quyền tư hữu tư liệu sản xuất.

Vậy hai luật này sẽ vi hiến nếu không sửa đổi hiến pháp. Hội trường xôn xao nhưng có ngay giải pháp, đó là “lách” qui định của Hội đồng Nhà nước. Cụ thể cứ lấy biểu quyết thông qua luật, sao cho số phiếu thuận đủ mức cho phép sửa hiến pháp rồi sẽ sửa hiến pháp sau. Và không khó khăn gì, lập tức Quốc hội ủng hộ để luật ra đời.

“Bồi thường lịch sử”

Khi soạn Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân lúc đó, tất cả mọi người tham gia đều có chung quan điểm: kinh tế tư nhân có buôn bán, phe phẩy, móc ngoặc, gian dối hoặc ít nhất cũng có sản phẩm chất lượng không cao vì công nghệ, máy móc, trình độ, qui mô thấp, chỉ chạy theo lợi ích riêng.

Cho nên luật ra đời phải có khả năng khống chế những nguy cơ đó để bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ lợi ích công, bảo vệ chủ nợ... Để đạt mục đích ấy, Nhà nước phải quản lý càng nhiều, càng chặt, càng chi tiết càng tốt. Cách quản lý tốt nhất là làm cái gì cũng phải trình báo xin phép, xin chứng nhận cái đó. Cơ chế cũng kiểm tra, thanh tra càng sát càng tốt...

Luật ra đời và đến nhiều năm sau khi chuẩn bị làm Luật doanh nghiệp, ông Cung mới thấy tác động của người làm luật khi có quan điểm, nhận thức không xuất phát từ nguyện vọng nhân dân, từ hoàn cảnh thực tiễn thì đáng tiếc mức nào.

Trong Luật doanh nghiệp tư nhân, ông viết (đại ý): các công dân VN phải đủ 18 tuổi trở lên, đủ năng lực hành vi dân sự mới được thành lập doanh nghiệp... Câu văn nghe bình thường, qui định về một việc đơn giản, nhưng trên thực tế khi xin thành lập doanh nghiệp, người dân đã phải đi xin chứng nhận mình trên 18 tuổi với nhiều chữ ký, con dấu khác nhau.

Họ phải xin chứng nhận của công an nơi đăng ký hộ khẩu, nơi công tác, nơi cư trú để chứng minh không bị truy nã, không phạm tội. Họ phải xin chứng nhận của bác sĩ rằng mình không bị tâm thần (đủ năng lực hành vi dân sự)... Rồi việc quản lý thật chặt khắc dấu, mở tài khoản, mua hóa đơn, giấy phép hành nghề, điều kiện hành nghề... còn làm khổ người dân gấp bội phần.

Đó cũng là những bước thực tập ban đầu và cũng là những kinh nghiệm thực tiễn quí báu trong quá trình làm luật, để các nhà soạn thảo “bồi thường lịch sử” khi bắt tay vào soạn thảo Luật doanh nghiệp và các qui định sau này liên quan đến kinh tế tư nhân.

Đã gần 20 năm đi qua kể từ khi bắt đầu làm luật về kinh tế tư nhân, ông Nguyễn Đình Cung nhận xét ý nghĩa lớn nhất của Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân là lần đầu tiên trong lịch sử chế độ xã hội chủ nghĩa ở VN, kinh tế tư nhân được thừa nhận về mặt pháp lý. Cột mốc này khẳng định sự tồn tại bất biến của kinh tế tư nhân trong xã hội.

QUANG THIỆN
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên