30/03/2011 10:24 GMT+7

Cha đẻ của phát triển và nhóm Mafia Berkeley

MICHAEL SCHUMAN
MICHAEL SCHUMAN

TTO - Những lời dọa giết vẫn tiếp tục đến. Mỗi ngày, Ali Wardhana lại nhận được một đống thư mới đầy những lời lẽ căm thù từ nhiều công chức giận dữ công khai chỉ trích các cuộc cải cách gần đây của ông. Hàng trăm lá thư được gửi đến liên tục nhiều tuần liền.

Phát triển là một cuộc chiến dữ dội.

Suharto

rHNzDHXl.jpgPhóng to
TTO - Những lời dọa giết vẫn tiếp tục đến. Mỗi ngày, Ali Wardhana lại nhận được một đống thư mới đầy những lời lẽ căm thù từ nhiều công chức giận dữ công khai chỉ trích các cuộc cải cách gần đây của ông. Hàng trăm lá thư được gửi đến liên tục nhiều tuần liền.

Một số bức có những lời đe dọa ám chỉ kín đáo rằng tính mệnh của ông đang gặp nguy hiểm. “Tôi biết khi nào anh rời nhà vào buổi tối,” một số thư cảnh báo. “Tôi biết anh đi con đường nào về nhà,” một số thư khác uy hiếp. Wardhana không lo sợ. Ông không có ý định chùn bước trước một lũ những kẻ quan liêu mà ông coi là bất tài và gian lận. Wardhana thậm chí còn không thèm bận tâm chuyện tuyển vệ sĩ hay viện đến cảnh sát bảo vệ. “Tôi để tùy Chúa phán quyết mọi chuyện,” ông nói.

Sự ồn ào bắt nguồn từ một quyết định vào năm 1985 liên quan đến việc đột ngột kiểm tra toàn diện cơ quan hải quan của Indonesia. Cơ quan này quá tham nhũng đến nỗi các nhà hoạch định chính sách của đất nước coi đó là một yếu tố kìm kẹp thương mại. Wardhana, khi đó là một Bộ trưởng Điều phối kinh tế, chịu trách nhiệm giám sát toàn bộ chính sách kinh tế, đang ở giữa chặng đường nỗ lực cải cách quan trọng nhằm tự do hóa nền kinh tế và thúc đẩy xuất khẩu. Cơ quan hải quan là vật cản ngáng đường. Bộ trưởng Tài chính Indonesia lúc đó là Radius Prawiro đã viết rằng hải quan có “luật riêng của mình”.

Kế hoạch do Wardhana và nhóm làm việc của ông đặt ra là táo bạo và sáng suốt. Ông dự định đóng cửa phần lớn cơ quan hải quan và thay thế nó bằng một công ty Thụy Sĩ chịu trách nhiệm giám sát và thu thuế hàng hóa vào Indonesia ngay từ khi hàng còn nằm ở các cảng xuất chứ không phải đã về tại Indonesia. Điều này sẽ chấm dứt tệ nạn mặc cả không ngừng về thuế và chấm dứt cả thói vòi vĩnh trắng trợn tại các cảng của Indonesia. Nó cũng khiến nhiều cán bộ hải quan thành người thừa. Kế hoạch không tránh khỏi việc gây ra phản ứng náo động.

Trước khi triển khai kế hoạch, Wardhana cần có sự chấp thuận của Tổng thống Indonesia Suharto . Mặc dù Wardhana đã là một trong những cố vấn kinh tế hàng đầu của tổng thống được gần 20 năm nhưng ông cũng chưa bao giờ có thể dám chắc vị Suharto khó hiểu sẽ phản ứng thế nào trước sáng kiến chính sách mới. Suharto không phải là một nhà kinh tế mà là một cựu tướng lĩnh giành được quyền lực qua một cuộc đảo chính quân sự.

Đôi khi ông gặp khó khăn trong việc quyết định chọn lựa giữa các đề xuất chính sách khác biệt nhau do các cố vấn và các bộ trưởng nội các khác nhau của mình đưa ra. Suharto cũng có một cách truyền đạt khó hiểu những mệnh lệnh của mình: một kiểu hướng dẫn người khác theo phong cách Nhật Bản truyền thống thông qua những lời gợi ý bóng gió thận trọng nhằm tránh sự đối đầu trực tiếp. Theo lời của người viết tiểu sử chính thức cho Suharto thì nụ cười của ông có thể mang ý nghĩa “đồng ý”, “không đồng ý”, “có lẽ” hoặc “không bao giờ”.

Tuy nhiên, cũng giống như Đặng Tiểu Bình, Park Chung Hee và nhiều nhà lãnh đạo khác của Phép màu, Suharto từ lâu đã hiểu giá trị của phát triển kinh tế đối với việc hợp nhất quốc gia đang trong tình trạng chia năm xẻ bảy này lại với nhau và hợp pháp hóa sự thống trị của chính ông. Suharto có lần viết: “Phát triển là một cuộc chiến dữ dội. Ở nhà, tôi nghĩ về nó; ở văn phòng, tôi hành động theo nó. Ngay cả khi tôi nhàn rỗi, tôi cũng luôn luôn trầm tư về những biện pháp và cách thức mới.”

Suharto cũng dần dần tin tưởng rằng Wardhana và những thành viên khác trong nhóm các bộ trưởng kinh tế có học thức cao của ông sẽ tham mưu cho ông một cách thông thái. Nhóm này đã tập hợp lại với nhau khoảng độ từ khi thời kỳ lãnh đạo của Suharto bắt đầu vào năm 1966. Vì một số thành viên chính của nhóm, trong đó có Wardhana, đã có bằng tiến sĩ kinh tế của trường Đại học California ở Berkeley nên họ trở nên nổi tiếng với biệt danh “Nhóm Mafia Berkeley”.

Khi Wardhana tiếp cận Suharto để nói về chính sách mới, vị tổng thống lắng nghe. Sau khi nghe Wardhana trình bày kế hoạch cải tổ ngành hải quan, Suharto bị ấn tượng mạnh đến nỗi đã hỏi ngay, liệu Indonesia có thể thuê một công ty nước ngoài làm thay cơ quan thuế vô dụng ở trong nước được không. Tuy nhiên, với vẻ lịch sự, Wardhana đáp rằng điều đó là không thể.

Có được sự tán thành của Suharto, Wardhana dốc sức, mạnh tay dọn dẹp sạch bộ máy hải quan. Ông sa thải tổng giám đốc của cơ quan này và bộ trưởng tài chính Radius kiêm luôn chức vụ bị bỏ trống. Hai tháng sau, công ty Thụy Sĩ được đưa đến và khoảng một nửa số nhân viên hải quan bị xếp vào diện phải ra đi không có ngày trở lại. Và rồi thư đe dọa thù ghét bắt đầu đổ tới.

Đó là một chiến thắng lẫy lừng của “Nhóm Mafia Berkeley”, một trong nhiều yếu tố đưa Indonesia tới Phép màu. Mối quan hệ giữa Suharto và nhóm này đã tạo nên một thành tích phát triển kinh tế đáng chú ý. Vào đầu thập niên 1970, khoảng 60% sân số Indonesia, tức khoảng 70 triệu người, còn sống trong cảnh nghèo xác nghèo xơ.

Đến năm 1990, con số đó đã giảm xuống còn 27 triệu người, tức chỉ chiếm 15% tổng dân số. Năm 1984, lần đầu tiên trong lịch sử Indonesia, đất nước đã tự đảm bảo được an ninh lương thực. Đây là thành tựu mà Suharto xem là lớn nhất của mình, điều mà ông tuyên bố là “thành quả của công cuộc kinh doanh vĩ đại do toàn thể nhân dân thực hiện”. Sự vươn lên về kinh tế của Indonesia cũng nằm trong số những câu chuyện thành công ít có khả năng xảy ra nhất của Phép màu, xếp ngang hàng với câu chuyện của Hàn Quốc.

Vào giữa thập niên 60, Radius đánh giá Indonesia là quốc gia có mức độ công nghiệp hóa thấp nhất trong số các nước đang phát triển lớn của thế giới. Dân số khổng lồ của Indonesia (ngày nay là 235 triệu người, Indonesia là nước đông dân thứ 4 trên thế giới) cùng với sự đa dạng nhiều nhóm ngôn ngữ, tôn giáo và sắc tộc khác nhau phân bố hết sức tản mác, tách xa nhau đã khiến cho sự phát triển của Indonesia trở thành một thách thức hơn nhiều so với các môi trường dễ quản lý như Singapore, Đài Loan hay Hàn Quốc thì Indonesia gặp nhiều khó khăn hơn.

Indonesia trở thành nước đi đầu trong làn sóng thứ hai ghi tên mình vào Phép màu, trong đó có cả Thái Lan và Malaysia. Quốc hội Indonesia, cơ quan đã bầu Suharto làm tổng thống, từng tặng cho ông danh hiệu “Cha đẻ của phát triển”.

Tuy vậy, “Nhóm Mafia Berkeley” mới là người xứng đáng nhận phần lớn lời tán dương. Nhóm các nhà kinh tế này giữ hầu hết các chức vụ kinh tế chủ chốt của đất nước từ giữa thập niên 60 đến cuối thập niên 80. Một số người còn trở thành cố vấn kinh tế cho Suharto sang thập niên tiếp theo. Quả là một thành tích đáng ngạc nhiên về thời gian phục vụ lâu dài và xuyên suốt không thay đổi.

Dù có nền tảng xã hội đa dạng khác nhau nhưng vì có chung cơ sở kiến thức giáo dục và các mối quan hệ cá nhân thân thiết nên nhóm này đều chia sẻ cùng một cách nhìn thống nhất về viễn cảnh kinh tế và phát triển: cùng một niềm tin vào thị trường tự do và doanh nghiệp tư nhân, cùng một sự tập trung vào mục tiêu giảm nghèo và, giống như các nhà kỹ trị Đài Loan, cùng một sự linh hoạt trong định hình và thay đổi chính sách sao cho phù hợp thực tế. Emil Salim, một thành viên cốt cán trong nhóm kinh tế tốt nghiệp trường Đại học California ở Berkeley, nói: “Về mặt tư tưởng, chúng tôi dần dần đi theo một xu hướng chung.”

Các thành viên của “Nhóm Mafia Berkeley” khác biệt rất nhiều với người đỡ đầu của mình là Suharto. Các nhà kinh tế là những người tao nhã, nói được tiếng Anh, có cái nhìn thoáng đạt hướng ra bên ngoài và khôn khéo. Tổng thống từng một thời là cậu bé nông thôn nghèo, có tính cách độc đoán, nặng về truyền thống, trầm lặng và tuy thông minh nhưng đường học vấn không dài.

Ngay cả khi lên làm tổng thống, Suharto vẫn giữ nhiều nếp sinh hoạt của cuộc sống nông thôn ngày xưa. Suharto kể, hằng ngày, ông dậy sớm trước 5g30 sáng như “thói quen của một nông dân hay một người lính” và chiều về thì tận hưởng sự nghỉ ngơi, phì phà điếu thuốc kretek tẩm tinh dầu đinh hương đặc trưng của người Indonesia mà đôi khi ông vấn bằng vỏ bắp ngô. Món ăn ưa thích của Suharto vẫn giữ nguyên không đổi như trước kia là món địa phương đơn giản rau củ các loại nấu với nước cốt dừa do vợ ông làm.

Lý Quang Diệu của Singapore từng có lần miêu tả Suharto là “một người thâm trầm, thận trọng”, “nói năng điềm tĩnh, nhỏ nhẹ”, giữ “một vẻ hơi khó gần” và “không phô diễn tài ăn nói hùng biện hay huân chương thành tích của mình nhằm gây ấn tượng với mọi người”. Tuy vậy, Lý Quang Diệu vẫn cảm nhận Suharto “rõ ràng là một người ngoan cường, cương quyết không cho phép bất kỳ một sự chống đối nào đối với những gì mà mình đã dự tính sẽ làm”.

Cỗ xe song mã tưởng như không hợp nhau giữa một bên là vị tướng võ biền, nệ cổ và một bên là nhóm Berkeley học cao hiểu rộng, quý phái đã tạo nên một mối quan hệ khăng khít không thể tách rời. “Nhóm Mafia Berkeley” nhận thấy Suharto là người có đầu óc cởi mở và sẵn sàng đưa ra những quyết định khó khăn, có khả năng không được lòng nhiều người.

Salim nhận xét: “Ông ấy là một người khiêm tốn, tự biết rằng ‘Tôi xuất thân từ làng quê nông thôn và tôi không được học hành chính quy, bài bản’. Tuy nhiên, ông ấy lại đặt ra được nhiều câu hỏi đúng”. Khi nhóm kinh tế bắt đầu tham mưu cho Suharto, ông hành động giống như một sinh viên hăm hở học hỏi, xuất hiện trong các buổi họp với một cuốn sổ cái và một cây bút bi lớn. “Ông ấy viết lại tất cả những gì chúng tôi nói,” Wardhana hồi tưởng. “Ông ấy đang cố học, cố hiểu hết thảy về kinh tế”.

Mối quan hệ giữa Suharto và “Nhóm Mafia Berkeley” dựa trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, thậm chí còn hơn thế, dựa vào tình bạn riêng tư bền chặt. Suharto mời các thành viên của nhóm đến nơi nghỉ dưỡng vào các dịp nghỉ lễ của mình trên Đảo Khỉ ngoài khơi Java cùng với các con của ông. Salim nói: “Nó không giống như kiểu quan hệ giữa sếp với nhân viên. Bạn là một phần của gia đình ấy. Chúng tôi giống như những người bạn, cùng chung vai sát cánh trên một chiến trường. Ông ấy dựa vào bạn và bạn dựa vào ông ấy.”

Nhân vật lỗi lạc không chính thức của nhóm, hay “cha già” theo cách gọi của Salim, là Widjojo Nitisastro, người đã cống hiến phần lớn sự nghiệp của mình cho bộ Hoạch định kinh tế của chính phủ. Với tư cách một nhà kinh tế tài ba, khiêm tốn và nhún nhường, Widjojo, theo như nhận xét của Wardhana, là “một thế lực lèo lái” đằng sau các nhà hoạch định chính sách, là người thúc đẩy họ phải ứng dụng kiến thức kinh tế của mình vào thực tiễn.

Wardhana cho biết Widjojo đã dạy họ rằng “chỉ là một thầy giáo tốt thôi không đủ. Chúng ta cần phải suy nghĩ làm cách nào để tăng phúc lợi cho người dân và phát triển quốc gia”. “Ông ấy không muốn chúng tôi tự bọc mình trong tháp ngà”. Kiên nhẫn không ngừng, Widjojo xây dựng mối quan hệ thân thiết nhất với Suharto, hơn bất kỳ một nhà kỹ trị nào khác, và cũng có mức độ ảnh hưởng nhiều nhất lên tổng thống.

Là một nhà chiến lược thận trọng, Widjojo sẽ cử những cộng sự đến gặp Suharto để đương đầu với những vấn đề nhạy cảm nhằm bảo vệ mối quan hệ của riêng ông với tổng thống. Như Salim đã mượn một thành ngữ nổi tiếng của người Java để nhận xét, Widjojo là một bậc thầy về khoản “biết làm cách nào để chiến thắng mà không bao giờ bị đánh bại”. Những triết lý kinh tế của Widjojo chủ yếu tán thành kinh tế thị trường. Không giống nhiều nhà kinh tế ở thế giới đang phát triển, ông nghi ngờ khả năng của nhà nước trong việc điều hành các công ty.

Ông dồn nhiều mối quan tâm của mình vào phát triển làng quê nông thôn và các dịch vụ phúc lợi dành cho người dân hơn: trường học, hệ thống nước, đường sá chợ búa mà chính quyền Suharto đã xây dựng vô số. “Trong suốt cuộc đời sự nghiệp của Widjojo, ông chủ tâm giữ một hồ sơ tiểu sử bình dị, khiêm nhường nhưng nếu có người nào xứng đáng với danh hiệu ‘kiến trúc sư của phát triển kinh tế Indonesia’ thì không ai khác hơn chính là Widjojo” - Radius viết.

Widjojo và “Nhóm Mafia Berkeley” tại Indonesia có nhiều nét tương đồng với Đặng Tiểu Bình ở Trung Quốc: Cả hai đều đảo ngược các chương trình kinh tế cánh tả do nhà nước chi phối vốn hoạt động không hiệu quả và dẫn dắt dân số khổng lồ của mình đi theo một hướng mới tiến tới thị trường quốc tế. Cũng giống như Trung Quốc, Indonesia khi đó hưởng lợi rất lớn từ sự bùng nổ kinh tế của “những kẻ đi trước”.

Khi các loại chi phí sản xuất ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Hồng Kông tăng lên, các công ty của những nước này bắt đầu tìm kiếm những môi trường có chi phí thấp hơn đối với khâu sản xuất cơ bản. Họ chuyển một phần hoạt động kinh doanh sản xuất của mình sang Indonesia, giống như cách mà họ đã chuyển sản xuất sang các đặc khu kinh tế của Trung Quốc.

Phép màu ở Indonesia có nhiều yếu tố giống như các nước hay vùng lãnh thổ còn lại khác của châu Á, đặc biệt là Trung Quốc đại lục, Hồng Kông và Singapore. Thành tích ngoạn mục của Indonesia là kết quả của tăng trưởng dựa vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, Phép màu của Indonesia cuối cùng cũng trở thành một thành tựu mong manh nhất ở châu Á. Trung tâm của vấn đề chính là Suharto, người đã lạc xa những nguyên tắc cơ bản vốn tạo đã tạo nên Phép màu ở nhiều nước châu Á khác.

Một vấn đề do Suharto gây nên là thiếu sự đồng tâm nhất trí trong bộ máy chính quyền của ông về chỉ đạo chính sách, một yếu tố then chốt quyết định sự thành công của “những kẻ đi trước”. “Nhóm Mafia Berkeley” chỉ đại diện cho một quan điểm về phát triển trong chế độ của Suharto: triết lý hướng ngoại, đi theo sự dẫn dắt của thị trường.

Nhóm khác thúc ép xây dựng những chiến lược mang tính hướng nội nhiều hơn, có sự kiểm soát của nhà nước nhiều hơn. Họ được gọi là “những người ủng hộ dân tộc chủ nghĩa”. Phe Mafia Berkeley và phe dân tộc chủ nghĩa đều cùng đánh lại một phe thứ ba: hội “thân hữu”. Hội những doanh nhân này thúc ép tổng thống ban cho họ những đặc ân, chẳng hạn như độc quyền thương mại và sản xuất, làm méo mó thị trường, làm suy yếu sức cạnh tranh của Indonesia và đi ngược lại những nỗ lực mở cửa nền kinh tế của “Nhóm Mafia Berkeley”.

“Tất cả mọi người đều lao vào đánh nhau để tranh giành sự chú ý của Suharto,” Salim giải thích. “Đó là cuộc chiến tư tưởng.”24 Đôi khi, “Nhóm Mafia Berkeley” làm chủ được suy nghĩ của Suharto và nền kinh tế tiến tới thương trường quốc tế; lúc khác, “Nhóm Mafia Berkeley” thua cuộc trước những nhóm đối thủ khác và chính sách kinh tế chuyển hướng.

Không giống như Đặng Tiểu Bình, Suharto chưa bao giờ sử dụng quyền lực chính trị của mình để áp đặt một sự chỉ huy rõ ràng lên những phe phái cãi nhau ầm ĩ này. Cuộc xung đột liên miên ở một mức độ nào đó đã nuôi dưỡng tâm lý đối mặt với khó khăn lâu dài của “Nhóm Mafia Berkeley”, một niềm tin cho rằng họ đang sống mái cho một cuộc chiến một mất một còn vì tương lai của dân tộc. “Có rất nhiều người chống lại chúng tôi,” Wardhana nói.

Câu chuyện của Indonesia, theo một cách nào đó, cũng đi tới hướng hạ bệ học thuyết cho rằng sự lãnh đạo độc tài là điều kiện tiên quyết then chốt đối với sự phát triển nhanh chóng. Dù sự kìm kẹp về quyền lực chính trị của Suharto cho phép chính phủ đưa ra những quyết định nhanh gọn giống như trong trường hợp Hàn Quốc của Park Chung Hee và Đài Loan của Tưởng Giới Thạch nhưng Suharto thường không có những quyết định đúng đắn.

Ông chỉ có một khái niệm mơ hồ về phương hướng của chính sách kinh tế và sẽ chọn lựa, quyết định giữa nhiều thực đơn chính sách ganh đua với nhau giống như chất đầy thức ăn vào một cái đĩa trong một bữa ăn với nhiều món nóng, nguội khác nhau phục vụ trong một quán ăn. Thế nhưng, vì Suharto là một người chuyên quyền nên chẳng có cách nào triển khai chính sách mà không có ông.

Kết quả là thường xuyên xuất hiện những chính sách trái ngược nhau hay những sự thay đổi kịch tính trong định hướng chính sách, hoàn toàn dựa vào sự thiên vị của Suharto đối với phe cánh này hơn phe cánh kia. Các chủ đề tư tưởng khác nhau vốn đem lại sự phát triển cho châu Á, từ những sáng kiến nhà nước lãnh đạo, sự định hướng đi theo thế lực của thị trường và toàn cầu hóa cho đến mối quan hệ cá nhân giữa chính phủ và doanh nghiệp, đều choảng nhau để giành vị trí thống lĩnh thay vì hợp lực cùng hoạt động với nhau.

Hơn nữa, trong quá trình lãnh đạo mang sắc thái cá nhân hóa của mình, Suharto đôi khi thiên vị cho các quyền lợi của gia đình và bạn bè mình hơn là lợi ích của quốc gia. Xét về khía cạnh này, chế độ độc tài chỉ có một người nắm quyền thống trị của Suharto là có hại nhiều hơn có lợi đối với phát triển nói chung.

MICHAEL SCHUMAN
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên