![]() |
Ông Tam và cháu nội - Ảnh: Văn Định |
Đã hơn 22 năm trôi qua, nhưng những lời trăng trối của vợ trước lúc mất, ông Mai Khắc Tam (làng Quần Ngọc, Khánh Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh) vẫn nhớ như in.
Sáng 7-5-1987, ông đưa vợ lên trạm xá xã Khánh Lộc sinh. Đến trưa vợ sinh được một đứa con gái xinh xắn thì ông về nhà lo cơm nước. Nhưng khi quay trở lại, vợ ông trở nên xanh xao, máu chảy rất nhiều, ông lo lắng đi gọi y tá. Sau khi khám xong, y tá tiêm thuốc cầm máu cho vợ ông nhưng không tác dụng. “Bà ấy yếu dần đi và nghẹn ngào dặn với tôi rằng: em không sống được nữa, anh cố gắng mà nuôi con”, ông Tam nhớ lại.
“Chúng tôi còn nhớ khi còn nhỏ, có những đêm trời trở lạnh rét mướt, cha nằm cố ôm hết chúng tôi vào lòng, ủ ấm chị em tôi suốt đêm... Công lao dưỡng dục của cha với sáu chị em chúng tôi như biển hồ lai láng. Cha đã cho chúng tôi cả tình thương yêu dịu dàng, sự chăm sóc ân cần của một người mẹ...” Chị Mai Thị Hạnh - con gái đầu lòng của ông Tam- thổ lộ |
Một mình nuôi con, nghề giáo viên cấp II của ông Tam kham không nổi cuộc sống hiện tại. Ông nhận thêm ruộng về làm. Người dân ở làng Quần Ngọc còn nhớ rõ: 3 giờ sáng họ đã thấy ông Tam dậy đi cày, trời vừa hừng đông ông đã về tới đầu làng lo cơm nước cho đàn con nhỏ rồi mới đạp xe đến trường dạy học.
Bà Nguyễn Thị Thanh, một người hàng xóm, kể: “Có lần vì cày bừa để gieo lúa cho kịp thời vụ mà thầy Tam nán lại làm lâu hơn. Khi đến trường học, chúng tôi thấy chân thầy còn lấm lem bùn chưa kịp rửa. Ở làng này ai cũng thương thầy Tam vất vả sớm hôm nuôi con, ai thu hoạch mùa trước cũng đến giúp thầy”.
Thời gian nuôi đứa con út Mai Thị Thương, ông Tam xem là thời gian cơ cực nhất trong đời. Thời đó sữa bột còn khan hiếm, ông đã bồng con đi hết làng này đến làng khác xin bú “thép”. Ông đếm đứa con gái út của ông lớn được như ngày hôm nay là đã bú nhờ của hơn 50 người mẹ có con nhỏ. Ông còn nhớ vào tháng 8-1988, trời mưa to gió lớn, nước ngập lênh láng xóm làng, thương con nhỏ khóc ngằn ngặt đòi sữa, ông bồng con lội nước lũ đi xin bú. “Lúc đó tôi ước gì mình có hai cái vú cho con nó được ngậm bú, chứ mưa lũ bồng đi có chuyện gì xảy ra thì biết ăn nói thế nào với hương hồn của mẹ nó. Trên đường đi, con thì khóc, tôi vừa dỗ dành vừa dò dẫm đường trong nước lũ. Khi con bú no hai bố con lại lủi thủi về trong đêm, tôi đi mà nước mưa hòa với nước mắt đầm đìa cả mặt...” - ông Tam bùi ngùi kể lại.
Nói đến chuyện nuôi con học hành thành đạt, cả làng Quần Ngọc đều khâm phục ông Tam. “Khi đứa con gái út chập chững biết đi, tôi cứ dặn lòng dù khó khăn đến đâu cũng phải lo cho con ăn học đến nơi đến chốn, không đi bước nữa”, nhưng điều ông Tam tiếc nhất là vì hoàn cảnh nghèo khó mà con gái đầu của ông phải nghỉ học giữa năm lớp 11 để về trông em nhỏ cho ông vừa làm thêm vừa dạy học.
Năm 1997, Mai Thị Nhung, con gái thứ hai của ông, thi đậu Cao đẳng Sư phạm Hà Tĩnh. Năm 1998, Mai Khắc Trung thi đậu Đại học Vinh. Hai năm sau Mai Thị Thu Hương thi đậu Đại học Huế. Vậy là đến năm 2000, ông Tam nuôi một lúc ba đứa con học đại học và cao đẳng. Dân làng lại thấy ông quần quật không có một ngày nghỉ. Một buổi đi dạy, buổi còn lại ông làm đủ mọi việc từ đồng áng đến chăn nuôi, bán từng bó rau dền, trái bầu trái bí ở chợ, rồi lên rừng đốn củi về bán hay đi làm thuê nếu ai đó gọi. Sau đó không lâu hai đứa con gái áp út và út của ông là Mai Thị Thanh và Mai Thị Hương thi đậu Đại học Văn hóa Hà Nội, gánh nặng nuôi con ăn học lại càng oằn trên vai người cha...
Về hưu đã được năm năm, con gái út cũng vừa bảo vệ khóa luận tốt nghiệp, lời hứa của ông Tam năm xưa với vợ xem như đã trọn vẹn.
__________________
Nước mắt của cha
![]() |
Ông Tần bên người con gái bệnh tật đã 30 tuổi - Ảnh: Văn Định |
Cũng là một người cha có cùng cảnh ngộ gà trống nuôi con nhưng ông Phạm Văn Tần (ở Minh Tiến, Kỳ Tiến, Kỳ Anh, Hà Tĩnh) luôn sống trong nỗi đau và nước mắt. Năm 1962, khi là một chàng trai đầy nhiệt huyết, ông Tần tham gia chiến trường Quảng Trị. Ông cùng đồng đội tham dự rất nhiều trận đánh ác liệt dọc sông Hiền Lương, vùng thượng Lào. Sau một lần bị thương nặng ở đầu, ông phục viên về quê hương.
Năm 1974, vợ chồng ông sinh được con gái đầu lòng nhưng chưa tròn một tuổi thì mất. Vợ ông sinh tiếp bé trai thứ hai kháu khỉnh, nhưng khi lớn lên lại bị bệnh tâm thần. Nỗi đau tiếp nối nỗi đau khi đứa con trai thứ ba sinh ra bị bại liệt. “Khi cháu thứ ba ra đời tui mừng lắm vì nhìn nó rất bụ bẫm. Ai ngờ cháu nằm liệt giường suốt sáu năm trời rồi mất”, nói đến đây nước mắt ông Tần vỡ òa trên khuôn mặt khắc khổ. Những tưởng nỗi đau đó sẽ không đến nữa, vợ chồng ông lại sinh tiếp. Nhưng chất độc da cam không buông tha đứa con gái thứ tư là Phạm Thị Chính, khi lớn lên chân tay bị co rút, sống như người thiểu năng trí tuệ.
"Con mất, vợ mất, đến những đứa con sống với tui cũng bị chất độc da cam hành hạ. Nhiều lần tui nghĩ quẩn, muốn tìm đến cái chết cho hết chuyện. Nhưng nghĩ lại thương hai đứa con gái lành lặn đang tuổi học hành mà cố sống làm lụng, lo cho chúng được đến trường" |
Vợ ông Tần mất đã 16 năm. Cuộc sống của ông và bốn người con đều trông chờ vào đồng lương thương binh và tiền chế độ chất độc da cam nhưng vẫn thiếu trước hụt sau. Để nuôi con, ông lao vào làm đủ mọi việc từ phụ hồ đến chở đất thuê miễn có tiền mua thuốc men, lo ăn học cho con dù vết thương thời chiến ở bả vai và đầu liên tục tái phát hành hạ cơ thể ông.
Năm nay hai người con gái lành lặn của ông, một vừa thi tốt nghiệp THPT, một học đến lớp 9, ông xem đó là hạnh phúc muộn màng, là liều thuốc tinh thần để ông sống nốt quãng đời còn lại. Ông tâm sự sống được ngày nào là ông phải lo cho hai con ăn học ngày đó và để hai con bị bệnh không thiếu ăn thiếu uống. “Con người ta bằng tuổi thằng Sâm, con Chính đã có vợ, có chồng. Còn hai đứa nó, một đứa ngồi trong nhà cả đời, một đứa cứ đi không biết đâu mà tìm”, ông Tần nói nghẹn ngào.
Thấy hoàn cảnh ông Tần như thế bà con lối xóm thường qua lại chia sẻ, nhưng ai cũng lo lắng cho bốn người con của ông. Năm nay ông đã gần 70 tuổi, sức khỏe hao mòn nhiều vì những năm tháng quá khổ cực nuôi con. Nghe nhắc đến bệnh tật của mình ông Tần lại rơm rớm nước mắt: “Tui sợ không bao lâu nữa tui mất rồi bốn đứa con của tui sẽ mồ côi cha mẹ, khổ lắm! Khi đó không biết hai đứa con bệnh tật ra sao đây”.
Ước nguyện bây giờ của ông Tần là mong năm nay Phạm Thị Thương thi đậu đại học và Phạm Thị Thân chăm ngoan học giỏi. “Cầu cho hai đứa học hành đỗ đạt thành người để sau này thay tui chăm sóc hai anh chị chúng. Có như vậy tui mới yên lòng nhắm mắt!”, ông Tần trầm ngâm.
Lịch sử Ngày của cha Ngày của cha xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1910, được khởi xướng bởi Sonora Smart Dodd ở Spokane, Washington (Hoa Kỳ). Ý tưởng tổ chức ngày này đến với Sonora khi cô nghe một bài giảng về Ngày của mẹ vào năm 1909. Sau khi mẹ mất, Sonora cùng các anh chị em đã được cha cô - ông William Jackson Smart - nuôi nấng, dạy dỗ. Cha Sonora sinh vào tháng 6, vì thế cô đã chọn tổ chức Ngày của cha lần đầu tiên tại Spokane, Washington vào 19-6-1910. Năm 1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã quyết định chọn ngày chủ nhật thứ ba của tháng 6 chính thức là quốc lễ dành riêng cho những người cha. Đây là ngày con cái thể hiện sự kính trọng, tình yêu thương của mình với cha qua những tấm thiệp, hoa, quà tặng cha. (Theo Internet) |
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận