![]() |
Ngay cả những sinh thể hèn mọn nhất, như con sâu con ốc, cũng bộc lộ những ứng phó tự vệ hay đào tẩu khi tính mạng lâm nguy, tuy chúng hình như không có hoạt động tinh thần như kiểu ý thức của con người. Con lươn nào khi bị bắt đem lên bờ cũng cố tìm cách chui xuống nước, và chúng sẽ có thái độ chống cự khi người ta tìm cách bắt chúng.
Tới những hình thức sống phức tạp hơn như chim và thú, người ta dễ dàng nhận ra được cách ứng xử để tự bảo tồn, như chiến đấu chống lại kẻ thù chẳng hạn. Loài người căn cứ vào chủ quan mà suy diễn ra rằng phía sau cách ứng xử ấy có sự hiện diện của ý thức, tuy họ không có cách gì giao tiếp với các sinh vật này. Thực ra, từ “ý thức” ở đây không đồng nghĩa với ý thức của con người.
Ứng dụng những nét tương đồng này vào đời sống nhân loại, có lẽ nên chia thành một bảng phân loại bốn phần về các kiểu ứng xử của con người:
1. Ứng xử có tính thực vật: Ngủ
Hoạt động vô thức
Không có sự tự giác
2. Ứng xử có tính động vật: Hoạt động có ý thức
Không có sự tự giác
3. Ứng xử cá nhân: Có tự giác
Hoạt động có định hướng xã hội
4. Ứng xử xã hội: Có tự giác
Hoạt động định hướng xã hội
Ứng xử có tính thực vật
Giấc ngủ chỉ là đình chỉ một phần cách ứng xử của con người bộc lộ lúc thức. Tuy bề ngoài mọi hoạt động đều bị đình đốn, chỉ còn những cái tối thiểu cần để duy trì cuộc sống, song hoạt động của cơ thể lại được tăng cường như công năng tiêu hóa chẳng hạn. Phân biệt rõ rệt nhất giữa thức và ngủ là trạng thái vô thức hoàn toàn khi ngủ.
Người ngủ không biết gì về hoạt động của bản thân mình cả. Trạng thái chiêm bao khác hẳn với hoạt động của ý thức lúc tỉnh cho nên không cần phải bàn tới ở đây. Cách ứng xử mù quáng, có tính sinh lý học của trạng thái vô thức lúc ngủ hầu như không có gì khác với cách ứng xử thực vật.
Ứng xử có tính động vật
Những hoạt động của chúng ta lúc thức khác với lúc ngủ là ở chỗ chúng ta biết rõ cái gì xảy ra, nhưng như vậy chưa đủ để nói là có ý thức thực sự. Giữa dòng chuyển động vô ý thức của các biến cố, chúng ta thay đổi liên tục do tác động liên tục của các kích thích tố bên ngoài. Khi thức những kích thích tố bên ngoài có nhiều khả năng được tri giác hơn là khi ngủ, nhưng chưa chắc ở trạng thái thức đã có được một sự “tự giác”.
Tinh thần tự giác này phân biệt cấp độ ứng xử động vật với các cấp độ sau. Trong tình trạng nửa chừng này, ta biết là đang có một hoạt động gì đó diễn ra, nhưng không rõ chính ta tiến hành hoạt động đó hay chỉ là phản ứng đối với những tác nhân bên ngoài. Chúng ta thấy mà chưa thật là thấy, nghe mà chưa thật là nghe, ăn mà chưa thật là đã “tri kỳ vị”. Chúng ta phải lệ thuộc vào người khác và hoàn toàn không biết đến cả cái khả năng tự thể hiện của mình.
Ứng xử cá nhân
Ở giai đoạn trên xuất hiện sinh hoạt hữu thức, tiếp theo là một bước tiến lớn được báo hiệu bằng ý thức tự giác. Như trong lời dạy nổi tiếng của Socrates: “Hãy biết chính mình”, ở giai đoạn này ta liên đới trước hết đến bản thân ta. Tuy từ lúc bé, chúng ta đã quan tâm ít nhiều đến môi trường xung quanh, hơn nữa còn giúp đỡ người khác.
Song do chính bản chất của con người, toàn bộ cách sống của ta và bản thân ta nữa vẫn được ta đồng nhất với mục tiêu thỏa mãn những nhu cầu và dục vọng cá nhân. Trong bước sơ khởi của tự giác này, cách cư xử của ta vẫn còn lấy bản thân làm trung tâm, hơn nữa, sự định hướng này của cá nhân rõ ràng là cảm tính, sau đó mới từng bước chuyển sang lý tính.
Ứng xử xã hội
Một ý thức rõ rệt lớn dần lên về một cái gì đó ở bên trên và vượt ra ngoài cá nhân, khiến con người nhìn chính mình như một công cụ hay một yếu tố để thực hiện mục tiêu lớn hơn của xã hội. Điều này trở thành tiêu điểm của ý thức chúng ta trong giai đoạn này.
Một cách phân biệt tương tự khác dựa theo các ngành khoa học đã tự đề xuất như sau:
1. Đời sống sinh lý:Một trạng thái vô thức của hiện hữu cá nhân.
2. Đời sống tâm lý:Một trạng thái hoạt động hữu thức nhưng chưa có mục đích rõ rệt.
3. Đời sống luân lý: Sau khi đề ra được những mục tiêu tối hậu, xuất hiện một trạng thái quyết tâm theo đuổi các mục tiêu ấy.
Sau cùng, tập trung tất cả tính cách trên lại với nhau, ta có được một lược đồ phân loại sẽ giúp cho việc xác lập mục đích giáo dục và xem xét các phương pháp giáo dục có thể giúp thực hiện mục đích đã đề ra.
1. Đời sống vô thức:Ứng xử có tính thực vật, sinh lý.
Những hoạt động vô thức không tự giác.
2. Đời sống bán hữu thức:Ứng xử có tính động vật, sống cảm quan không định hướng, lệ thuộc vào ngoại cảnh.
3. Đời sống hữu thức: Đời sống tâm lý tiền nhân tính, sống cảm tính không có định hướng.
4. Đời sống hữu thức: Sự tự giác được đồng hóa với mục có tính cá nhân tiêu thỏa mãn bản thân mà thôi, theo đuổi một cách có ý thức các giá trị của điều lợi và cái đẹp.
5. Đời sống hữu thứcSự tự giác được tập trung vào lợi ích có tính xã hội của toàn xã hội, theo đuổi một cách có ý thức các giá trị tinh thần.
Ứng xử cảm tính và lý tính
Khái niệm “lối sống” cũng có thể giúp chúng ta hiểu tại sao ứng xử cảm tính và lý tính lại tạo nên những cách sống khác nhau. Hai cách sống này phân biệt với nhau không những ở từng người mà còn ở bên trong quá trình phát triển tâm lý của bất cứ cá nhân nào. Cảm tính là nhân tố chính trong cách ứng xử của một người vào thời thơ ấu, nhưng người ta càng trưởng thành lên, cảm tính càng được lý tính chế ngự.
Nếu không có sự chế ngự này, thì các mối quan hệ sẽ bị nhiễu loạn, kể từ những mối quan hệ cá nhân đơn giản cho đến những mối quan hệ ngoại giao quốc tế. Muốn sống thực sự hài hòa trong xã hội, phải tuân thủ những điều kiện cộng tác hòa bình với kẻ khác, và điều này lại đòi hỏi một thế thăng bằng giữa cảm tính và lý tính trong cách ứng xử cá nhân.
Theo như chúng ta biết thì người nguyên thủy không hiểu lý tính là gì. Họ có thể sống mà không cần suy nghĩ nhiều, họ sống bằng cảm tính trong hoàn cảnh của từng lúc. Khi mọi sự êm ả thì không có vấn đề gì. Nhưng khi có vấn đề thì có thể là thảm họa. Tuy cũng luôn luôn lo sợ rằng sự thể có thể trở nên nguy khốn, người nguyên thủy cũng không làm gì nhiều để tự bảo vệ thường xuyên, chính vì không hề nghĩ đến việc dự tính cho tương lai.
Người văn minh khác hẳn, họ biết dự tính những cách đương đầu với mọi bất trắc. Đây chính là nguồn gốc của lối sống lý tính. Khi một sự cố xảy ra, suy nghĩ đầu tiên của ta là lý giải sự cố đó xem nó tác động đến cuộc sống của chúng ta thế nào và tới mức nào. Ta tìm cách làm sao cho những chuyện may mắn tái diễn, hay làm sao cho chuyện tai hại ít xảy ra.
Ta cố tìm cho ra những điều kiện tiền đề có thể dẫn tới những sự cố đó và tìm cách xác định các nguyên nhân của nó. Khái niệm nhân quả trở thành bản chất thứ hai đối với chúng ta. Nhưng bằng chứng rõ nhất là sự lặp đi lặp lại của chuỗi các sự kiện. Dĩ nhiên đó là con đường của phép qui nạp.
Lối sống lý tính như vậy cũng có thể gọi là lối sống logic, và cũng như luật Nhân quả hoạt động trong thế giới tự nhiên, trật tự logic của cuộc sống trong xã hội không cho phép sống theo sở thích chủ quan.
Người ta lấy làm tiếc cho kẻ nào tuy đã hiểu và thừa nhận các giá trị của qui tắc lập luận logic trên lý thuyết, lại không ứng dụng được vào trong cuộc sống của mình, bị chìm trong cảm tính, rồi mất hết lòng tin vào những gì mà xã hội phải đem lại cho mình, và rốt cuộc phải học lại giá trị của lý tính qua kinh nghiệm chua xót và, không phải chỉ học một lần mà học đi học lại như thế mãi.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận