![]() |
Người ông nở nang, một cầu thủ túc cầu. Sau giờ thể dục, học sinh tập đi đều, nghiêm trang hát bản Nhạc tuổi xanh vang rền, lời nguyên thủy: “Một mùa Thu năm xưa cách mạng tiến ra đất Việt”. Ông đóng góp cuộc đời cho môn thể thao Trung học nhiều thế hệ. Khi ông về hưu, tiếng đếm trên sân cỏ sáng tinh sương, trời vừa mờ tối, văng vẳng đâu đây.
Trường có thêm ba, bốn giám thị khác: Ông Vận, ông Giỏi, ông Sải. Ông Sải lớn người, da đen, dễ nóng, sẵn sàng nạt nộ như người thù thù ghét học sinh từ đời nào.
Tôi chỉ nhớ tên các giáo sư dạy tôi từ Đệ Thất đến Đệ Tứ (1954-58):
Thầy Nguyễn Cửu Phú dạy Anh Văn tôi đầu tiên, thầy nói rổn rảng, nhai trầu, hiền lành, không nặng lời với học sinh. Sau đó là thầy Trịnh Minh Lang, gốc Hoa, giảng bài ưa pha tiếng Pháp. Bắt đầu Đệ Thất, quyển sách Anh Văn duy nhất là quyển L’Anglais Vivant, sixième bleue, nhà xuất bản Hachette, học hai năm. Lớp Đệ Ngũ, Đệ Tứ học cuốn Cinquième, bài về Christmas, ông ngồi trên bàn nói, tôi nghe thoang thoáng, “Ông già Noel ăn puđing tráng miệng”. Lên Đệ Ngũ thầy Lưu Đức Dần, người Bắc, dạy. Ông có vẻ mệt mỏi, ít nói, nghiêm trang, giảng văn phạm pha tiếng Pháp, “to be, to have” là “verbes auxiliaires”. Lúc đi thi Trung học Đệ nhứt cấp, hai bài thi dịch không dính dáng gì đến hai cuốn sách trên.
Cô Giêng dạy Pháp văn, tính cô hiền nhưng nghiêm nghị. Vào lớp, cô đứng chờ học sinh đứng lên, nhã nhặn: “Cám ơn các em, ngồi!”. Giờ Pháp văn thật khó thở, toàn văn phạm vô bổ, participle present, analyse logique, gramaticle khô khan. Sau đó lên lớp trên bọn tôi với thầy Nguyễn Thế Trung và Trần Cao Luận, gốc Bắc. Đệ Tứ bắt đầu học thơ văn Pháp, luận văn và dịch.
Thầy Lê Hữu Thời dạy Việt Văn, thầy sống nghệ sĩ, vui tánh, năm 1954 mà dám đọc bài bức thư của “Hoàng Hoa Thám gởi cho Cha” (của Tố Hữu) kể ra rất cang cường. Thầy sống rất mẫu mực, tôi ở nhà bác Hai Khá sát bên nhà thầy, cuối tuần thứ bảy chứa bài từ sắc suốt đêm, thầy bưng tô nước trà qua ngồi góp vui câu chuyện nhưng không bao giờ đụng tới cây bài. Thầy nuôi tám người con, năm người cháu đều thành đạt. Gặp thầy ở Caen năm 87, thầy tặng tôi một bài thơ nay còn giữ. Thầy mãn năm 1989.
Thầy Trần Sung, gốc kỹ sư, dạy đại số hình học. Thầy người cao lớn, hình như một trong những giáo sư cao niên nhứt, còn ảnh hưởng Pháp sâu đậm, mở miệng là “bon”.
Thầy Phan Cao Nhựt, dạy môn gì tôi quên mất, da ngâm ngâm, mặc áo trắng bốn túi, vô cùng gay gắt. Thầy đánh dữ quá, bậm môi, nắm đầu học sinh dộng vô bảng. Mỗi lần thầy bước vào lớp, lớp lạnh tanh, run đùi vì sợ cũng là lý do no đòn.
Thầy Trần Văn Hai, trẻ, mới ra trường, gốc Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho, dạy Toán rất hay, lớp tư đông học sinh, có điều thầy hay chửi và khó khăn quá. Thầy có ác cảm với tôi, lý do không rõ, tuy tôi rất trọng thầy, có lẽ vì hai chất hóa học trong người thầy và tôi chống nhau. Tôi sợ thầy như cọp, rất lễ phép, mong thầy nương tay. Tôi học kém, có khi hỏi, bị thầy nạt nên nín khe, thầy không trả lời mà hỏi lại, làm tôi nghẹn luôn. Sau năm 1956, thôi học với thầy tới giờ, những điều thầy dạy không còn lưu lại dấu vết hay ảnh hưởng chút nào sau này. Em xin phép quên ơn thầy, nhứt là câu kết luận sau mỗi bài giảng: “Đứa nào không hiểu ăn ruột chó cùn”.
Ông Đốc Phúc dạy Việt văn, chấm câu bằng tiếng “hả”, dạy Việt văn lớp Thất A. Thầy Hiệu già mặc complet trắng, đội nón cối trắng. Khi về hưu, hết luôn môn Hán văn “huyết hồi tâm, máu về tim”.
Thầy Ngô Vĩnh Nghĩa, tú tài toán, dạy toán từ Đệ Lục đến Đệ Tứ. Tôi học chậm, các từ ngữ kề bù, đồng dạng... mất căn bản và sợ toán tới giờ. Thầy dạy hay gặp tôi học trò dở tệ, cái số tôi ít bị kêu lên bảng nên yên thân được bốn năm. Ngày nay tôi dở toán và khoa học, lại dính tới hai môn này, quả là nghiệp dĩ. Một số các giáo sư tôi còn nhớ, thầy Lê Hoàng Tánh (Việt văn), thầy Ánh (Sử- Địa), thầy Thuận, thầy Trần Thiện Hiếu (Việt văn), thầy Vũ Hữu Diện (Lý hoá đệ ngũ), cô Đặng Thị Ngọc (Pháp văn), thầy Thi dạy Nhạc, thầy Trần Mạnh Cẩm có tài nhớ nét chữ học trò, vẽ bằng hai tay.
Suốt năm Đệ Thất, tôi lơ mơ chưa tỉnh, học chậm, trong sổ điểm hàng tháng, có khi tôi hạng 51 trong 52 đứa, lay hoay copier bọn nó rồi cũng đủ điểm lên lớp, tôi không mong bảng danh dự, dĩ nhiên “không cần” lãnh thưởng làm gì. Miễn có tiếng là học sinh Trung Học đủ rồi. Năm đó có bốn lớp Đệ Thất, ba lớp Đệ Lục, hai lớp Đệ Ngũ và một lớp Đệ Tứ.
Năm 1954, tôi quan sát, lúc đó Đệ Tứ khoảng chừng 15 học sinh. Tất cả đều chững chạc, nghiêm trang có tư cách và chăm học. Khi họ nói chuyện hoặc ra sắp hàng chào cờ đều xứng đáng bậc đàn anh, chưa hút thuốc, uống rượu, dĩ nhiên có anh chưa biết uống cà-phê. Hôm lãnh thưởng, anh Chung lãnh nhiều, cầm không hết, phải nhờ chú Xuân lao công bưng dùm cái đồng hồ lớn treo tường. Phần thưởng lớp Đệ Ngũ, Lý Hoàn Minh lãnh cái Radio, chị Lan lãnh cái máy may. Đó là những món rất đắt tiền thời đó, học sinh cả tỉnh ao ước. Mãi đến năm 1957, bác Hai Khá mới mua lại cái Radio cũ cho bọn tôi nghe cải lương và ban kịch Dân Nam.
Thời điểm năm 1954 chỉ có bốn dãy lớp, chừng 16 phòng học, tổng số học sinh chừng trên năm trăm. Tôi nhớ gần hết tên bạn học lớp Đệ Thất C, vì học chung nhau 4 năm, chỉ có vài thay đổi nhỏ. Năm đầu Lâm Ngọc Châu làm Major (Trưởng lớp), Tân làm phó, mỗi lần tới phiên lớp chào cờ, Tân ra đánh nhịp. Năm 1961 gặp lại Lâm Ngọc Châu ở Rạch Giá, hắn đang bán vé xe đò, tôi ăn tô bún xào và uống ly nước ngọt, họ nhất định không chịu lấy tiền, vì tôi là bạn Châu. Oai dữ vậy ta!
Nửa năm đầu chưa có đồng phục, cần mặc áo sơ-mi trắng, mặc quần dài, bỏ áo ra ngoài, mang guốc, đó là tối thiểu. Nửa năm sau, áo trắng, quần tây dài, bỏ áo vô trong, mang giày hay sandale hoặc mặc bà ba trắng, mang sandale hay guốc vông. Tấm hình chụp Đệ Ngũ (1957) không còn thấy đứa nào mặc áo bà ba.
Nữ sinh mặc áo bà ba trắng, mang guốc đen, mang guốc vông, guốc cao gót chưa thịnh hành. Nữ sinh còn kẹp tóc dài, nhưng độ vài năm sau, ít thấy ai để tóc dài. Những mái tóc xoắn thay thế mái tóc dài tha thướt, mộc mạc với gương mặt thật, không điểm phấn tô son.
Buổi sáng dọc theo đường Hàng Sáo, tiếng guốc rộn rã, học sinh tới sớm ăn sáng trước trường, xe bánh mì pâté, cháo đậu, xôi, bên xe nước đá chú Bảy Được.
Insigne (phù hiệu) màu xanh dương, giữa là mặt trời trắng có nhiều tia. Thằng Tòng mang insigne Trung Học, xách ly đi mua cà-phê đá tại Bar Nam Hiệp, lúc trả tiền cho cô Nhung, nó lắc lắc túi trên móc tiền cốt ý cho cái insigne “chớp chớp”, “ta là học sinh Trung Học đây”. Không biết cô Nhung có nể nang gì nó không.
Giáo sư giai đoạn đầu, hầu hết gốc giáo viên Tiểu học lên dạy Trung học. Các vị Đốc học (Hiệu trưởng) thường xuất thân từ trường École Normale (gần Sở Thú ngày nay), cũng có vị có Diplôme hay Brevet (tương đương 9 năm học, nhưng thời đó trình độ cao và thi cử khó khăn hơn ngày nay nhiều). Học École Normale được trả học bổng nội trú, không tốn kém cho cha mẹ:
“Dưa leo chấm với cá kèo
Cha mẹ tôi nghèo, tôi học Normal”
Trình độ Pháp văn đáng bậc học Tú Tài sau này, không hiểu sao bọn tôi được dạy: “Je mange du riz, je bois du l’eau” (Tôi ăn cơm, tôi uống nước), loại tiếng Pháp “bầy tôi” (bồi Tây).
Sau hiệp định Genève năm 1954, cuối năm có một số giáo sư gốc Bắc đổi vào. Các vị này đều có Tú Tài nên dạy các môn chánh như Toán, Lý Hoá, Pháp Văn, không khí học tập thêm hứng khởi. Chiến tranh vừa chấm dứt, phụ huynh nức lòng cho con đi học, trường sở mở rộng thêm, các lớp đêm đông học sinh, tôi cũng đi học, dở toán mà trốn học toán.
Không khí chánh trị thay đổi đâu ở Sàigòn ảnh hưởng đến nếp sống thường nhựt khá nhiều. Trận đánh cuối cùng ở Cái Dầu làm đường Châu Đốc – Long Xuyên gián đoạn mấy ngày. Quân đội cậu Hai Ngoái tan rã, cậu Hai và cậu Ba (Ba Bô) thôi lái xe Cadillac là kỳ quan cho bọn tôi như chiếc xe Xi-gà của tướng cướp Hiệp Liệt trong chuyện Châu Về Hợp Phố đăng trên nhựt báo Thần Chung. Suốt mấy năm liền, mỗi tuần có những cuốn tiểu thuyết mỏng loại định kỳ, giá một đồng một cuốn, trọn bộ dường như hai chục cuốn. Tiểu thuyết in trên giấy thường như Đảng Đầu Lâu Máu, Kinh Thiên Đại Khách, Hiệp Sĩ Què, Đảng Huỳnh Long… Mỗi tuần mua để dành, sau thành bộ, đọc đi đọc lại. Tôi để dành được tám bộ, mang về quê cất, ông già tôi lại xé từng tờ để gói đinh bán ráo. Tờ nhựt báo mỗi tờ một đồng, giao tận nhà như Tiếng Chuông, Thần Chung…
Ngoài việc học, chúng tôi giải trí tại hai rạp Lạc Thanh và Tân Việt. Rạp Tân Việt cất năm 1956 bên bờ hồ (sau này hồ bị lấp) trên đường Bảo Hộ Thoại. Rạp Lạc Thanh ở đầu chợ, phía trái nếu nhìn từ bờ sông Hậu Giang, chủ người Chà, thường chiếu phim Ấn Độ. Trong Xuôi dòng Cửu Long (tác giả Phạm Thăng) có nhắc tới rạp Tân Kiểng bên hông chợ Châu Đốc (Gạo Chợ, Nước Sông, trang 116). Tôi hỏi tứ tung mà không ai biết, Châu Đốc đâu có rạp Tân Kiểng. Gặp người bạn Vĩnh Long mới biết rạp đó ở Vĩnh Long. Phạm Thăng nhân huynh thương Vĩnh Long hơn Châu Đốc, nên đến Châu Đốc mà lòng còn vương vấn quê mình!
Năm tôi học Đệ Lục cũng có tổ chức cuộc thi ca nhạc toàn tỉnh, tại Nhà Việc. Chị Xinh hạng nhứt, chị người Bắc (không biết tên) hạng nhì, chị Phạm Thị Hiếu hạng ba. Chị Hiếu nổi tiếng văn nghệ của trường, chị là cháu thầy Thời bên cạnh nhà tôi trọ, mỗi buổi trưa nghe chị đưa võng hát ru em, “Kìa ào ào, chiến xa Việt Nam tiến thẳng lên đường”. Dịp này có ba phần thưởng cho học sinh toàn trường. Phần thưởng Trí Dục (học giỏi) về chị Lài, 100 đồng. Phần thưởng Đức Dục (hạnh kiểm) thằng Chung Kinh lớp tôi, 150 đồng. Phần thưởng Thể Dục và Anh Giàu, 200 đồng (tương đương 40 tô hủ tiếu hoặc 240 dollars Úc thời giá bây giờ).
Vừa lãnh phần thưởng Đức Dục xong, lớp thầy Đào Công Kỹ cũng vào giờ Đức Dục, thằng Châu mang cuốn Sept nuits merveilleuses (Bảy đêm khoái lạc) vô lớp, chuyền tay khoe, lúi húi bị thầy Kỹ bắt đem lên xem. Chung Kinh khai sách của Châu với Tổng Giám Thị, ra Hội Đồng Kỷ Luật, Châu lãnh zéro conduite, bị đuổi. Chung Kinh hết lãnh Tableaux d’Honneur (Bảng Danh Dự), từ đó về sau Châu buồn và bỏ học luôn
Năm 1954, học sinh Châu Đốc, Long Xuyên phải xuống Cần Thơ thi Trung học Đệ nhứt cấp. Năm đó tỷ số đậu khá cao, vào trường chuyên môn như Quốc gia Sư phạm, Thương Mại… ra trường là tột đỉnh, lương bổng mỗi tháng mua trên hai lượng vàng. Nhớ chị Ba trọ nhà thầy Rớt, học sau tôi một năm, vừa đậu Tiểu Học (1955) mừng quýnh, về quê sắm áo dài, xin được chân Giảng tập viên, lương khoảng 1.800 đồng, ăn cơm nhà đi dạy khá thảnh thơi. Cá mắm rẻ rề, chưa kể cha mẹ học trò biếu xén mùa nào thức nấy phủ phê, thời đó chưa có nhiều nhu cầu.
Cũng năm tôi học Đệ Lục, trường đã có Đệ Tam (lớp 10) từ 1955, đáng lẽ nên học thêm Toán, Lý Hóa, tôi sợ hai môn này, chạy trời không khỏi nắng, vì đi thi đó là hai môn chánh. Tôi mải mê mơ mộng viễn vông, mỗi lần giải Toán trong lớp, đầu óc tôi u tối, bây giờ mới biết đó là loại bịnh tâm lý ADS (Attention Deficit Syndrom) không thể tập trung tư tưởng lâu, nói theo đạo là “tâm viên ý mã”. Bị bạn học bỏ xa, tôi buông xuôi tới đâu thì tới, muốn lấy lại căn bản cũng không được, chỉ bám lấy cái hy vọng, nhờ piston của ông già nay, “xải chí” (xài tiền) như kỳ thi vào Đệ Thất. Mãi đến ngày nay vẫn chưa biết giải phương trình bậc 2 và định luật Ohm, điện trở. Mà biết làm gì ba cái đồ ma đó, kêu thợ điện tới là nó ráp cho đầy đủ.
Cuối niên khóa 1958, bốn lớp Đệ tứ A, B, C, D khăn gói xuống An Giang thi Trung học Đệ nhứt cấp. Trung tâm thi đặt ở trường Thoại Ngọc Hầu, cho các trường Châu Đốc, Rạch Giá và Long Xuyên. Xe đò đầy ắp, tiền xe lên giá ngang xương.
Tôi chưa tự tin, chắc sẽ rớt, nhưng còn chút hy vọng hão huyền, nhứt là trông cậy ông già tôi, lần này không phải rẻ như kỳ thi Đệ Thất, mà là mười ngàn, sau đó tăng lên mười lăm ngàn (viết ra sao không biết mắc cỡ?). Bác Hai Khá (lúc đó đã đổi xuống Long Xuyên, vì nhập tỉnh) dặn tôi làm dấu trong các bài thi để giám khảo dễ nhận ra. Ông già tôi quyết đánh trận để đời, ổng tưởng Trung học Đệ nhứt cấp giống như Brevet hay Diplôme ngày trước, làm thầy ký, Cò-mi rồi leo dần lên ngồi quận.
Ngày đầu thi Việt Văn, bình luận bài thơ Vịnh Côn Sơn của cụ Phan Châu Trinh, bài đó tôi chưa học. Toán được nửa bài, Lý Hóa được vài câu. Anh Văn lấy bài trong Cổ Học Tinh Hoa ra dịch và một bài dịch Anh Việt. Pháp Văn còn là sinh ngữ một, bài dịch Pháp Việt (L’heure de repos = Giờ nghỉ ngơi) và bài Rédaction (Luận văn), đề tài viết về một dự định du ngoạn khi nghỉ hè. Đó là dự định thôi, tôi lại tả cuộc nghỉ hè, hors de sujet (lạc đề). Ngặt quá, Pháp văn đâu có học chân truyền, modes và temps chưa vững, làm sao conjuguer verbes ở conditionel passé ? Chế độ thi nghiêm ngặt, Giám thị lớp rất sợ cấp trên, im lặng và căng thẳng. Thầy giáo Khải có hai người con gái thi, đúng ngay phòng ông gác, cũng đành làm ngơ, và ông chưa đủ trình độ nhắc toán Trung học. Qua cửa sổ, thỉnh thoảng thấy ông Phạm Văn Lược, Chánh chủ khảo, đi chầm chậm nhìn vào, đôi mắt nghiêm khắc và cảnh cáo. Thí sinh ít ai dám “đánh phép” như thời nhiễu nhương sau này. Trường hợp thằng Bỉ, nổi tiếng trong Ban Văn nghệ trường vào dịp phát thưởng, thần tượng của các nữ sinh. Bỉ giỏi văn nghệ, có số đào hoa, suốt năm ôm đờn hát những bản nhạc thịnh hành thời đó: “Chiều nay bên làng cũ, cô thôn nữ yêu kiều…”. Tôi nhớ nó ôm đờn, đầu gật gật, lim dim như bị xì-ke hành: “Chim ơi cho ta nhắn đôi lời, một lời mà thôi, về phía xa xôi, thăm người chiến sĩ giùm tôi”. Nó lẫn lộn âm nhạc và toán đại số hình học. Vào giờ thi toán, nó chép bài nhạc Kiếp nghèo (nhạc và lời của Lam Phương), bị cấm thi kỳ hai (lại lạc đề!).
Ngày có kết quả, thí sinh mấy tỉnh, thêm phụ huynh, ngồi âu lo chờ kết quả, rất nhiều phụ huynh gốc nông dân, còn mặc bà ba đen, quấn khăn, đứng bên con cháu mặc âu phục tân thời. Lúc kêu kết quả, có tiếng hét reo mừng, có cô cậu tiu nghỉu đứng dậy ra về, phụ huynh mặc áo xốc xếch theo sau, thằng Múi cùng quê tôi, tên vần M kêu trước. Chết tôi rồi, nó đậu “vớt” vô đệ thất, học lớp D. Cứ đinh ninh tôi giỏi hơn nó, nó đậu rồi, còn tôi thì chưa biết, hồi hộp chờ đợi. Tới vần N, thằng cha Giám khảo đọc sót tên tôi, đi đời. Xách túi áo quần theo ông già đi ra, xe đò đậu dài dài chờ kẻ bần đệ, tụi lơ xe kêu nghe phát ghét: “Lên xe này đi ông bác, cậu hai”. Xe đò ngày đó ưa bỏ tài, chỉ cần rước học sinh thi rớt là đủ xe. Lần đầu nếm mùi thi rớt, còn nữa!
Tôi lủi thủi lên xe. Thi rớt buồn đã đành, trước sau gì tin thằng Múi đậu sẽ tới tai ông già tôi, khốn khổ hơn. Ông sẽ so sánh, chê khen. (Múi hiền lành, đẹp trai, chăm học mà tôi ganh ghét nó mấy năm. Múi vào Quốc gia Sư phạm, đổi về Sa Đéc, có vợ con sống cuộc đời bình thản hạnh phúc, hết bị bầm dập thi cử như tôi).
Thi kỳ hai, tôi bay luôn. Tệ hơn, lúc đầu làm đơn xin vô lớp Đệ Tam, điểm trung bình tôi quá thấp, “dưới moyen”. Chờ đợi từ tuần này sang tuần khác, ông già tôi nổi quạu, thêm ông cậu tôi buôn bán ở Sài Gòn thôi thúc, tôi phải miễn cưỡng rời trường Thủ Khoa Nghĩa, nhớ bạn bè, nhớ trưa tắm Cầu Quan, nhớ sân vận động.
Qua bao nhiêu nhục nhằn, đầu tư tất cả cho cấp bằng công danh của con để nhẹ bớt áp lực của chính quyền, ông già tôi xất bất xang bang vì sự thất bại ê chề của tôi. Cuộc khủng hoảng triền miên đè nặng gia đình đã đành, tin con cháu người khác đỗ đạt càng làm làn sóng khủng hoảng nổi lên cuồn cuộn. Suốt mùa thi, việc buôn bán chỉ có bà già tôi lo, ngưng trệ nhiều. Chú thằng Múi, rít điếu thuốc bao xanh hôi rình, mặt nghiêm trọng: “Thằng Múi cái mặt nó thiệt là buồn à (ý nói mặt không sáng sủa), vậy mà thi một keo được liền”. Mặt chú thằng Múi càng thích thú, mặt ông già tôi càng dài và xám thêm. Ông đi sai sải về nhà đổ thêm dầu lên đống than đang âm ỉ cháy. Ông Kiếm mập, được dịp tỏ ra sành về chuyện thi cử, đem khoe người em gái vợ, “toán nó hay lắm à! Đậu viết kỳ hai”. Khoe ai không khoe, cứ chiều chiều lê lết nhà tôi, mụ vợ đứng bên kia cười te toét. May quá, cô em vợ ông thi rớt oral kỳ hai, cũng như không. Cám ơn! Cám ơn!
Đêm đêm nằm nghe ông già rên rỉ, kiệt sức buông xuôi sau khi tôi rớt kỳ thi Trung học Đệ nhứt cấp cuối cùng năm 61, “Phải nó đậu Trung Học, vô được Sư Phạm như thầy Định, thầy Chói, tao chết cũng vừa lòng”. Ông già tôi mệt mỏi lắm rồi. Bà già tôi gan góc hơn: “Năm tới đậu à, tao cho đậu”, nói như mê sảng. Năm sau đã dẹp Trung học, đậu nỗi gì. Giấc mơ ông già tầm thường quá, đi dạy học, “cưới con chủ tiệm vải, mở tiệm vải mần ăn”. Tôi trốn trong giấc mơ cao sang hơn (cưới Công chúa Mãn Châu hay làm Phò mã Nhựt). Tôi “tìm bạn bốn phương” với cô gái Nhựt, Mai Mộc Hòa (Kazuko Umeki), liên lạc đến năm 1978, ngày nay nhìn mấy mươi tấm ảnh cô từ nhỏ tới có gia đình mau quá. (lạc đề xa quá!).
Đậu xong Trung học Đệ nhứt cấp, năm đó có nhiều trường Quốc gia Sư phạm mở thêm khóa cấp tốc một năm để đáp ứng nhu cầu gia tăng sĩ số học sinh Tiểu học các quận. Lương tháng 4.200 đồng, cơm tháng chừng năm trăm đồng, chiếc xe Mobylette chừng chưa tới sáu ngàn đồng. Một loạt học sinh học giỏi yên phận, thi vô Quốc gia Sư phạm tỉnh và về quận dạy an nhàn đến năm 1965.
Song song với trường Trung học Châu Đốc, Thủ Khoa Nghĩa, khoảng năm 1953 có trường Nguyễn Đình. Năm 1955, Châu Đốc thêm trường Bán công Nguyễn Hữu Cảnh, kế bên trường Thủ Khoa Nghĩa, học phí nhẹ và lớp Tiếp liên không còn.
Xa trường cũ, bơ vơ giữa đám học sinh đồng học xa lạ Sài Gòn, tôi nhớ ray rứt trường chừng vài tháng, rồi cũng quên.
Năm 1959, có Đại hội Thể thao Học sinh tại sân Tao Đàn. Học sinh Thủ Khoa Nghĩa năm đó đoạt rất nhiều giải điền kinh. Hôm cuối có trận bóng đá chung kết giữa Quốc gia Sư phạm và Trung học Thủ Khoa Nghĩa. Bốn cánh khán đài gồm mấy trường Trung học lớn ở Sài Gòn chiếm cứ (Pétrus Ký, Gia Long, Chu Văn An, Trưng Vương). Tôi may mắn chen vào, ngồi khép nép giữa học sinh Pétrus Ký. Dĩ nhiên học sinh Sài Gòn ủng hộ Quốc gia Sư phạm. Đội Thủ Khoa Nghĩa nhỏ tuổi hơn bị dẫn 0-2 hiệp đầu, tôi thấy tổn thương. Tên thủ môn Quốc gia Sư phạm lớn con, giữ hay quá, anh cũng gốc Thủ Khoa Nghĩa, trên tôi hai lớp. Hiệp sau Thủ Khoa Nghĩa gỡ 2-2. Thằng học sinh Pétrus Ký ngồi bên tôi la ỏm tỏi, nó la như “huấn luyện viên thượng thặng”: “Tao chỉ jeux cho đá… Tụi Thủ Khoa Nghĩa uống nước mạch chạy mau lắm”. Thủ Khoa Nghĩa thắng điểm đoạt giải Túc cầu Học sinh Toàn quốc năm 1959. Dân Sài Gòn uống nước ống rỉ sét chớ sang trọng gì đó. Từ đó tôi ác cảm với dân gốc Pétrus Ký, mỗi lần gác thi, không nhắc thì chớ, tôi tìm cách đì bọn nó. Xin lỗi! Tôi lớn mà quá tiểu tâm, thù vặt. Vô lý.
Năm 1958, tôi rời trường, hay bị đuổi kỹ thuật, ông Hiệu trưởng Ngô Văn Dư cũng đổi về Sàigòn. Gặp ông ở chợ Bến Thành, vẫn bộ veston trắng, đội nón nỉ trắng, nắng Sai Gòn ông đi mà chịu nóng. Mấy vị Hiệu trưởng kế tiếp, hình như ông Lịnh, Trịnh Văn Mười Hai, Nguyễn Văn Hộ. Sau 1962, thành trường Trung học Đệ nhứt cấp. Tôi mất liên lạc từ năm rời trường. Mỗi lần về quê ăn Tết, qua khỏi Long Xuyên, tôi đi ngả Lộ Tẻ nên ít có dịp qua Châu Đốc. Trường đã xô tôi ra, suy lại thấy may nhiều hơn rủi. Nếu tôi được nhận, lại vào học Ban A (Khoa Học) làm sao tôi theo nổi môn Lý Hoá, Vạn Vật? Lại ù lì vô ích thêm vài năm nữa, chắc gia đình tôi điên mất. Năm ra trường, danh sách không có nhiệm sở Châu Đốc. Tôi lang bang ở Sài Gòn, rồi năm 1974 xin về Quốc gia Sư phạm An Giang cho gần, Bộ Giáo dục lại cho tôi về Sư phạm Ba Xuyên.
Năm 1971, Hội Cựu học sinh tổ chức họp mặt tại trường vào sáng mồng hai Tết. Tôi từ Tri Tôn ra trễ, được đón tiếp đưa đến chỗ ngồi, thế hệ cấp lớp tôi không có ai, lớp theo đơn vị quân đội, lớp như bèo trôi giạt bờ bến nào?
Lớp trẻ, sau tôi độ năm, sáu năm, chuẩn bị dàn âm thanh đàn hát giúp vui ngày họp mặt. Bơ vơ không gặp một người đồng lứa mình chia sẻ, tôi ngồi ngơ ngác cả buổi. Trường Thủ Khoa Nghĩa không muốn dung chứa, tôi ngồi lơ đãng, Ban Tiếp tân quên cho tôi ly nước, khát nước mà không dám xin, muốn lấy miếng bánh trên dĩa mà còn ngại ngùng, lạc lõng.
Năm xưa chim hót vang rừng
Ăn chung trái ngọt, uống chung suối ngàn
Năm nao chim đã vỡ đàn
Lặng im tiếng hót, ngỡ ngàng cuộc vui.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận