![]() |
Chính vì vậy, hiện nay bên cạnh quá trình tự đánh giá, chất lượng thật phải được thể hiện (định nghĩa và đánh giá) từ phía những “người tiêu dùng” chất lượng.
Bộ GD-ĐT vừa công bố qui chế tạm thời về kiểm định chất lượng trường đại học trong nỗ lực đáng trân trọng nhằm chuẩn hóa và cải thiện chất lượng giáo dục đại học. Theo qui chế này, chất lượng giáo dục đại học sẽ được thẩm định thông qua quá trình tự đánh giá của mỗi trường và những đánh giá độc lập từ bên ngoài - được thực hiện bởi các hội đồng thẩm định chất lượng do bộ thành lập. Đây là một bước đi phù hợp với quan điểm chất lượng hiện tại. Tuy nhiên, có hai vấn đề chính cần đặt ra. Một là cơ sở nào để chúng ta hình thành các tiêu chuẩn chất lượng? Hai là các hội đồng tự đánh giá và đánh giá cần có thành phần như thế nào để có thể phản ánh toàn diện được bức tranh chất lượng giáo dục?
Trong quản lý hình thành lý thuyết đánh giá chất lượng dựa trên quan điểm của đối tượng thụ hưởng. Stakeholders (chứ không phải stock holders - những cổ đông) là khái niệm rộng, bao gồm tất cả các nhóm có liên quan về quyền lợi và nghĩa vụ đến một tổ chức, ở đây tạm gọi là các nhóm đối tượng thụ hưởng. Nghiên cứu nhu cầu và sử dụng các thông tin phản hồi từ tất cả các nhóm này theo những trọng số khác nhau là cơ sở đầu tiên, quan trọng nhất của các quá trình xây dựng chất lượng của các tổ chức.
Trên thực tế, việc các doanh nghiệp lấy ý kiến của khách hàng để cải thiện chất lượng sản phẩm không có gì là mới mẻ. Với các đơn vị nhà nước và các trường đại học, việc làm này cũng đã được nhắc đến và được một số nơi thực hiện, chẳng hạn những buổi họp mặt giữa sinh viên và lãnh đạo nhà trường của Đại học Sư phạm kỹ thuật, hay việc tổ chức lấy ý kiến sinh viên về chất lượng giảng dạy của Đại học Quốc gia TP.HCM. Thật ra việc lấy ý kiến đánh giá môn học của sinh viên không có gì mới mẻ ở các trường đại học nước ngoài, và ở khoa quản lý công nghiệp, ĐH Bách khoa TP.HCM cũng đã định kỳ tổ chức lấy ý kiến sinh viên từ năm học 1999-2000. Những thông tin loại này đã đóng vai trò khá quan trọng cho việc nâng cao chất lượng dạy của từng giảng viên và chất lượng quản lý giáo dục của khoa.
Tuy nhiên, từ thực tiễn cũng như đối chiếu với lý thuyết quản trị chất lượng trên quan điểm đối tượng thụ hưởng, chúng ta có thể khái quát một vài vấn đề chính như sau:
1. Các tiêu chuẩn chất lượng (theo qui chế mới gồm có 10 tiêu chuẩn) cần được hình thành không chỉ trên cơ sở ý kiến của chuyên gia trong ngành và các nhà giáo dục, mà phải có đầu vào từ các nhóm thụ hưởng thành quả giáo dục như: sinh viên, cựu sinh viên, giảng viên, các tổ chức sử dụng lao động, cộng đồng... Cũng trên quan điểm này, các hội đồng đánh giá chất lượng giáo dục cũng cần có một tỉ trọng lớn các đại diện bên ngoài trường đại học và Bộ GD-ĐT. Có như vậy tiêu chuẩn chất lượng mới thể hiện được chất lượng thật và đánh giá chất lượng mới thật sự khách quan.
2. Một câu hỏi lớn tiếp theo cần được đặt ra là: hệ thống của chúng ta đã sẵn sàng tiếp nhận và xử lý các thông tin phản hồi từ đối tượng thụ hưởng? Hay cụ thể hơn, lãnh đạo các trường sẽ làm gì khi sinh viên đánh giá thấp chất lượng của một môn học, một giảng viên cụ thể? Ở Mỹ, nếu liên tục bị sinh viên đánh giá thấp, giảng viên sẽ không được tiếp tục ký hợp đồng.
Ở VN, chúng ta có dám sa thải không? Hay thông tin phản hồi cho thấy lớp học quá đông nên không thể có chất lượng - chúng ta có thể cắt giảm qui mô lớp học hay không? Cho nên, để giải bài toán chất lượng ở chỗ này vấn đề cơ bản không phải chỉ là tổ chức lấy ý kiến, mà quan trọng hơn lại là chúng ta có những thay đổi gì về hệ thống, cấu trúc và thể chế để tận dụng được các thông tin phản hồi!
3. Một khi đã chuẩn bị được những cải cách về thể chế và hệ thống, các trường phải xác định được những nhóm đối tượng thụ hưởng chính và các tính chất của mỗi nhóm. Các nhóm chính thông thường là: sinh viên, cựu sinh viên, doanh nghiệp, các tổ chức sử dụng lao động, các trường bạn, các chuyên gia giáo dục, chuyên gia chuyên ngành, chính phủ, cộng đồng... Cần nhìn nhận chính xác về vai trò của mỗi nhóm này trong chức năng phản ánh chất lượng giáo dục. Mỗi nhóm đóng vai trò hoàn toàn khác nhau trong bức tranh chất lượng chung.
Chẳng hạn, sinh viên có thể cho các nhận xét cụ thể, chính xác về một môn học, một giảng viên về khả năng truyền đạt, nhiệt tình, đảm bảo nội dung, giờ giấc, hay đánh giá các dịch vụ học đường do các bộ phận chức năng của trường cung cấp, nhưng không thể đánh giá được các yếu tố như tính hợp lý của chương trình đào tạo, quản lý đào tạo, hay chất lượng nghiên cứu khoa học. Ngược lại, những đơn vị sử dụng lao động hay các chuyên gia giáo dục/chuyên ngành lại có thể đánh giá tốt cấu trúc chương trình đào tạo hay chất lượng quản lý giáo dục... Mặt khác, so sánh với các trường bạn trong nước và ngoài nước trên các tiêu chí chất lượng cũng là công việc quan trọng để nâng cao chất lượng. Chính vì vậy, các nhà quản lý giáo dục cần có cái nhìn toàn diện về các nhóm và vai trò của các nhóm để chọn lọc được các thông tin hữu ích cho quá trình ra quyết định chất lượng.
Lý thuyết về quản trị chất lượng trên quan điểm đối tượng thụ hưởng là lý thuyết tương đối toàn diện và đã được khẳng định trên thực tiễn ở nhiều nước. Tuy nhiên, nó cũng có những hạn chế cần nhìn nhận. Hạn chế cơ bản nhất chính là ở giả thiết của lý thuyết: đối tượng biết được nhu cầu chất lượng của mình (doanh nghiệp biết mình cần gì ở người lao động, sinh viên biết mình cần học gì...) và có thể phản ánh khách quan đánh giá chất lượng qua các công cụ thu thập thông tin. Giả thiết này không hoàn toàn chính xác trên thực tế. Do vậy bên cạnh các đánh giá về nhận thức của các đối tượng, các nhà quản lý vẫn cần có một tư duy tổng hợp sáng suốt và những công cụ đánh giá khách quan mang tính lượng hóa như: số lượng sinh viên trên giảng viên, qui mô lớp học, số bài báo khoa học trên các tạp chí uy tín, số tiền đầu tư cho một sinh viên, số đầu sách trong thư viện...
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận