![]() |
T.S. Eliot ở London tháng 1 năm 1956 (Ảnh của tạp chí Time) |
Năm 1670, Andrew Eliot rời East Coker ở Somerset, nước Anh để đến Boston, Mỹ. Hai trăm mười tám năm sau, dòng giống của ông - Thomas Stearns Eliot, người sau này trở thành một trong những nhà thơ viết bằng Anh ngữ nổi tiếng nhất thế kỷ 20 - ra đời ở St. Louis, Missouri - con trai của một thương gia và một nhà thơ - Henry và Charlotte Eliot.
Mặc dù chàng trai trẻ Thomas nhận được sự giáo dục tuyệt vời về văn học Anh và châu Âu cũng như triết học, tôn giáo Đông và Tây Âu, nhưng đến giữa những năm tuổi 20, cậu rời bỏ sự nghiệp về triết học tại trường Đại học Harvard và chuyển đến nước Anh.
Ở đây, cậu lập gia đình, gặp gỡ Ezra Pound và trong khi đang làm việc tại ngân hàng Lloyds Bank, cậu đã cho ra mắt tập thơ Prufrock and Other Observations.
Thế nhưng, theo cùng những năm tháng trưởng thành cùng nghiệp văn chương lại là những lo lắng trong gia đình. Tháng 1 năm 1919, cha của Eliot qua đời, gây ra một nỗi đau đớn tội lỗi cho cậu con trai mình - đứa con đã từng hy vọng sẽ có thời gian hàn gắn những cảm xúc khó chịu gây ra bởi cuộc hôn nhân và việc di cư của mình. Cùng lúc đó, sức khỏe, tinh thần của vợ ông - Vivien suy giảm dẫn đến những khủng hoảng nặng nề về tài chính cũng như tinh thần ông.
Nghe theo lời bác sĩ, ông đi nghỉ 3 tháng ròng: lúc đầu ở bờ biển tại Margate, sau đó là tại một viện điều dưỡng ở Lausanne, Thụy Sĩ. Sau đợt điều trị này tháng 10 năm 1922, Eliot xuất bản trên The Criterion tác phẩm Vùng đất hoang (The Waste Land) - một tác phẩm mà ông đã bắt đầu viết từ năm 1919.
Và thi ca hiện đại bắt đầu từ sự kiện này.
Được viết trong giai đoạn khó khăn trong cuộc sống riêng tư - hôn nhân đang đổ vỡ, cả Eliot và Vivienne đang phải chịu đựng trạng thái tinh thần hỗn loạn - Vùng đất hoang thường được cho miêu tả sự tan vỡ ảo tưởng của thế hệ hậu chiến.
Không phải ai cũng quan tâm đến nó. Dorothy Wellesley viết cho W.B. Yeats, nóng nảy nhận xét rằng: "Nhưng Eliot, người đàn ông đó không phải người hiện đại. Ông ta vò xé quá khứ đến khô héo và đổ nước ép xuống cổ họng của những người hoặc là quá bận rộn, hoặc là quá sáng tạo để đọc càng nhiều càng tốt cái ông ta làm ra”.
"Nước ép của quá khứ" không phải là sự miêu tả tồi cho huyết mạch của Vùng đất hoang; nhưng đó là một quá khứ quá hỗn độn đến mức độc giả đồng thời cảm thấy mất phương hướng và bị xô đẩy vào chiếc máy thời gian. Vùng đất hoang thực sự bi quan và không phải là một bài thơ chất Mỹ.
Trong cảnh hoang tàn của sự tan vỡ giá trị của đạo Do Thái và Cơ đốc trong quá khứ, bài thơ hướng về sự cứu giúp của Đức Phật cùng ba lời dạy của Ngài: Cho, Cảm thông, Kiềm chế. Nhưng trên con đường đi đến sự kết thúc của nghi lễ tôn giáo, nó làm mờ đi một chuỗi phức hợp không tình yêu, hung bạo hay bất lực của nhục dục - giữa những người có giáo dục và những kẻ vô giáo dục, và trong cả cuộc sống riêng của ông.
Bài thơ là sự thu thập lại những đoản văn gây ấn tượng sâu sắc dựa trên cuộc sống của Eliot ở London. Xúc cảm mãnh liệt khác thường trong Vùng đất hoang nảy sinh ra từ việc đốt nóng đột ngột nhiều loại nguyên vật liệu trở thành một tổng thể có nhịp điệu của những kỹ xảo tuyệt vời và sự táo bạo.
Bất chấp sự tối nghĩa, khó hiểu được đưa vào trong Vùng đất hoang - sự thay đổi đột ngột người nói, thời gian, địa điểm; sự dồn nén bi thương đáng kinh hãi của một phạm vi văn hóa, văn học rộng lớn và đối nghịch nhau - nó đã trở thành một chuẩn mực của văn học hiện đại, một đối trọng thể thơ với cuốn tiểu thuyết Ulysses của James Joyce xuất bản cùng năm đó.
Bài thơ kết thúc với những dòng thác của nhiều ngôn ngữ khác nhau - Anh, Italia, La tinh, Pháp, tiếng Phạn và bạn đọc vẫn cảm thấy sự tìm kiếm vô vọng của tâm hồn ẩn sau bài thơ - nhưng bị quyến rũ bởi tiếng nhạc chuẩn xác của những dòng thơ tự do với một trong những câu thơ nổi tiếng nhất như: "April is the cruellest month/Tháng Tư là tháng hung dữ nhất” hay “I will show you fear in a handful of dust/ Tôi sẽ chỉ cho bạn nỗi sợ trong một nắm tro tàn” (Tạm dịch).
Ezra Pound - người giúp cắt tỉa và mài sắc bài thơ khi Eliot dừng lại ở Paris trên đường đi và trở về từ Lausanne - ca ngợi bài thơ này với tấm lòng nhiệt tình của người đỡ đầu. Việc công bố bản thảo năm 1972 chỉ ra tầm ảnh hưởng lớn của Pound đến phiên bản cuối cùng của bài thơ: trước đó nó có tựa đề He Do the Police in Different Voices; phần thứ 4 của bài thơ, Death by Water, được giảm xuống còn có 10 dòng so với 92 dòng trong bản thảo.
Một sự giúp đỡ quan trọng không kém đến từ người bạn cũ của Eliot tên là Thayer, chủ bút của tạp chí The Dial, người đã quyết định ngay cả trước khi xem bản hoàn thiện của bài thơ để đưa nó trở thành chìa khóa cho những nỗ lực của tạp chí trong việc kiến lập văn chương Mỹ của văn hóa hiện đại.
Làm sao mà Vùng đất hoang - và những bài thơ buồn tiếp theo nó gặt hái được thành công tới một mức độ nhất định và đến năm 1956, trường Đại học University of Minnesota đã phải mời ông đến nói chuyện? Sự phát triển kỳ lạ của tri thức trong khoảng thời gian từ 1910 đến 1940 chắc chắn sẽ giúp cho việc giải thích mối quan tâm tăng lên của công chúng đối với những sáng tác hiện đại.
Những người yêu thơ trong thời kỳ tiền hiện đại đã sống sót với chế độ ăn kiêng nghèo nàn hoặc của chủ nghĩa lý tưởng của Plato, hoặc là “sự suy tàn” của những năm sau 1890. Những đoản văn của Eliot của cuộc sống hiện đại (lúc mỉa mai, lúc bi thương) và sự trầm tư mặc tưởng của nó đã giác ngộ thơ ca Mỹ đến với một trí thông minh phức cảm tưởng chừng như đã mất. Nỗi đau buồn xé nằm dưới tác phẩm mỉa mai tĩnh tại của Eliot đã không mất đi trong độc giả - những người bỗng nhiên cảm thấy rằng khi hiểu Eliot, họ hiểu được chính bản thân mình.
Eliot mất năm 1965. Như ý nguyện của mình, ông được chôn cất ở East Coker - một ngôi làng ở vùng Somersetshire nước Anh, cùng với tổ tiên, để lại dòng sông Mississippi cùng cuộc đời tha hương ngoan cố. Thế nhưng ông đã có một cuộc đời vẻ vang của một anh hùng: Năm 1948, Eliot được trao tặng giải Nobel văn học với lời ca ngợi ngắn gọn “…cho những đóng góp tiên phong, nổi bật cho thơ ca thời nay".
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận