25/07/2009 06:40 GMT+7

Thương nhớ đồng rừng

 HUỲNH THẠCH THẢO (Phú Yên) 
 HUỲNH THẠCH THẢO (Phú Yên) 

AT - Đồng rừng nơi tôi ở trước kia còn gọi là xóm Hóc. Nơi ấy, ban đầu chỉ khoảng hai mươi nóc nhà trong một thung lũng được nối liền con đường mòn phía sau lưng núi Chóp.

Những thửa ruộng nhỏ như ô bàn cờ ăn nước trời mỗi năm một vụ thông qua con suối lớn tuôn chảy về chiếc cầu gỗ, nơi tôi qua lại mỗi lúc đi học ở ngôi trường gần đường cái quan. Con đường nhiều xe cộ tung bụi mịt mù mà ngày ấy tôi luôn ước ao được ngồi lên để đi đây đó, mắt sẽ được nhìn bao quang cảnh mới lạ khác xa đồng rừng quanh năm mờ sương, mặt trời lên tận đọt sào mới hé rạng vì triền núi che khuất. Còn mùa mưa thì cứ rả rích dài ngày, mưa triền miên đến nỗi đi học phải khoác áo tơi lá nhưng vượt khỏi xóm Hóc ra đến ven đường cái quan thì nắng chang đổ, chiếc tơi lá lẻ loi nơi góc lớp cùng biệt danh thằng Núi trong suốt thời cấp một.

Tôi nhớ, từ chiếc cầu gỗ bắc qua con suối có một cây thị lớn, tán phủ rợp mấy ô ruộng với gốc sần sùi đầy hang bọng cho cả bầy tắc kè bông làm nơi trú ngụ. Bà nội bảo ở đó có đủ các loại ma nhát người, từ ma đưa võng ru con hời hời vào những đêm trăng, ma treo cổ trắng toát đong đưa qua lại, ma không đầu đùa giỡn trên cành rồi dùng quả thị thay thế chiếc đầu đã mất để dụ con nít.

Tối tối nghe bà kể rùng hết cả mình đành năn nỉ dì Hiên dẫn ra trước nhà để tè. Chỉ có chú Thiên con bà Bảy Vọng là không sợ, chú còn chui hẳn vào bọng nhử bắt từng chú tắc kè bông đem về mổ bụng, phơi khô ngâm rượu và cho mọi người. Mùa thị ra hoa trắng rợp, quả lủng lẳng đầy cành rồi dần vàng ửng tỏa mùi thơm theo gió làm bọn trẻ chúng tôi muốn ăn nhưng chẳng đứa nào dám vì có bầy ong rừng hàng ngàn con không hiểu từ khu rừng nào, cứ đợi mỗi mùa thị quả to bằng chiếc bát vừa rám vàng thì kéo nhau về xây tổ, mãi đến lúc mưa đồng rừng bắt đầu tuôn đổ thì lũ lượt bỏ sang nơi khác để lại những quả thị nám đen, khô cứng rơi đầy gốc.

Có lần, giữa trưa đứng bóng, con bò của chú Bảy Cò thả rông tìm nguồn nước, nó xuống chân cầu uống thỏa thê rồi tìm bóng mát của tán thị. Bất chợt, đàn ong nghe động ào ạt tuôn ra đen đặc, tiếng rống của con bò giữa trưa chang nắng cứ rền rền làm mọi người bủa đến. Cả bọn sợ toát mồ hôi vội đánh bò đang tụ tập trên đồi chạy tản ra lúc con một sừng của chú Bảy là khối đen lăn lộn, nó quều quào nhổm lên, ngã xuống rồi lăn tõm vào lòng suối, thảm ong rừng cứ là là theo vết bọt sủi nhìn đến nổi gai óc. Mãi đến khuya chú Bảy cùng mọi người đến chân cầu hì hục nắm bốn vó chổng ngược của nó kéo khỏi mặt nước, nó căng phềnh gấp ba và tím đen như quả trâm trâu mọng nước.

Từ đó, bọn tôi cạch hẳn cây thị vào mỗi mùa quả chín, chỉ có chú Thiên cười hềnh hệch bảo: "Chúng mày làm mối dì Hiên của thằng Núi cho tao, tao sẽ hái cả thúng!". Lúc ấy dì Hiên ở với mẹ tôi. Dì còn trẻ lắm và đẹp nhất xóm, tóc mượt dài, mắt đen to tròn, khi cười có lúm đồng tiền hai bên không chê đâu được. Tôi lắc đầu quầy quậy vì không thể cược dì Hiên cho lão đen như bồ hóng, thân dềnh dàng cuồn cuộn cơ bắp, nói cười rổn rảng, đầu tóc rễ tre chìa ra như bàn cuốc đợi bập vào đá sỏi núi đồi. Nhưng "nhất quỷ, nhì ma, thứ ba bọn trẻ đồng rừng". Vậy là trưa nắng, cả bọn rủ dì Hiên lên đồi tìm thị chín, riêng tôi lén xuống tìm chú Thiên đang nằm đưa võng đón gió bên hè. Chú xăng xái đi liền, tới nơi thấy dì Hiên đang xõa tóc ngóng từng quả thị trên cành, chú hấp háy mắt một tí, gãi đầu cười cười khi bọn tôi hét vang: "Không, thị ở đây dở òm, kìa kìa...".

Cả bọn cùng lúc chỉ xuống chân đồi còn dì Hiên lại cười, nheo mắt bảo: "Coi chừng ong rừng...". Chú cười lắc đầu, nói không biết với ai: "Được, chờ tui chút". Bóng chú xăm xăm bước, bọn tôi chết lặng vì nhớ hình ảnh khủng khiếp của con bò một sừng. Bóng chú khuất sâu và im lìm trong tán lá xào xạc theo gió. Mãi lúc lâu, chú quay lên tay ôm cả đống thị vàng ửng, tươm mật. Bọn tôi reo hò đón người hùng dù mặt chú tái mét, ngực phập phồng đầy mồ hôi, nụ cười méo xệch.

Ăn quen, cách ngày sau chờ dì Hiên vừa hong xong tóc là bọn tôi kéo dì lên đồi. Chú Thiên ngồi chờ từ trước với chiếc bao bố bự tổ chảng, cái đầu bàn cuốc cứ nghếch lên đón mùi hương lá sả. Tôi giễu: "Chú, cô tiên từ quả thị bước ra kìa!". Chủ đỏ mặt còn dì Hiên đỏ rừ đến tận chân tóc. Chú vung vẩy chiếc bao màu trắng đầy hiên ngang lao xuống chân đồi. Nhưng kìa, bầy ong đã về tự hồi nào và chú vừa chui mình vào tán lá là nó ồ ra rào rào, bâu kín đen kịt. Bóng chú chạy dích dắc, phía sau từng bầy túa theo làm cả bọn tái mặt, dì Hiên bấu chặt vai tôi thở dồn. May sao, chú chụp vội chiếc bao vào người lăn lông lốc rồi ùm xuống suối trôi theo dòng. Mãi xế chiều, cũng từ chân cầu cũ, tay dì Hiên run run bôi vôi ăn trầu mà tôi lén lấy của nội lên vai chú Thiên. Sau đợt ấy, chú còn vênh váo: "Nó mới chơi tao hai phát vào mặt với vai, chứ chục phát cũng chả sợ, có tay tiên mà mày!".

Sau giải phóng, cha về đưa gia đình trở lại làng cũ lúc tôi đang học ở phố; không chỉ bà nội hay mẹ mà cả xóm Hóc đã không đi. Bà đã quen ở đất này và cứ mỗi chiều sa mưa, bà lại đội nón lên đồi, lúc ngang cây thị lớn bà dừng lại chờ cơn mưa rây rây rắc hột đi qua. Tôi có dịp về thì bà đưa sang nơi ấy. Tôi hỏi: "Bà còn nhớ ông không?".

Bà cười: "Ông ở quanh đây, tối nào không đến thăm bà”. Tôi không thể hiểu vì ông mất trong chiến dịch Pháp đánh ra đèo Cả lúc tết đã cận kề, mọi sân nhà đã vàng rực hoa vạn thọ và đỏ hồng mào gà trên lối đi nhưng không còn một người trong xóm cũ. Có người bảo, ông tôi bị bắt, bị đem ra trảng cát làng để chôn sống cùng nhóm ấy. Cũng có người bảo, địch xỏ xâu từng người dẫn lên đồng rừng để bắn. Cát thì mênh mông hết trảng này đến trảng khác, dấu chân giẫm lên chỉ cần cơn gió nhẹ đã xóa lấp tất cả. Đồng rừng nhấp nhô núi đồi mọc đầy gai mắt mèo, dủ dẻ, trâm bầu thì biết đâu mà tìm. Vậy mà bà đã lặn lội qua từng doi cát, rờ rẫm hít thở từng đụn cát, thì thầm với cát và nỗi vô vọng càng lúc càng đầy. Rồi bà lại lên đồng rừng, bắt đầu lăn viên đá nhỏ, phát bụi chà gai, dựng thêm túp lều bên bụi tre rừng có lối đi của dân sơn tràng. Bà là người đầu tiên vào xóm Hóc và cứ mỗi chiều sa mưa lại lầm lũi lên đồi. Khi về, cả mê nón đầy những quả dủ dẻ chín vàng, chim chim đỏ mọng.

Tôi hỏi: "Bà kiếm đâu nhiều thế?". Bà lại cười: "Ông đợi bà trên ấy sẵn tiện hái gửi cho con". Tôi hỏi mẹ, mẹ bảo: "Coi chừng ma đồng rừng". Ma đâu nhiều thế, ma đồng rừng của mẹ khác bà là đêm đêm vào mùa gió chướng nó réo rắt khắp thung lũng, vào đêm tối mịt có từng đám lửa cuộn tròn rồi tung tóe hoa cà hoa cải, rồi tụ hội từng bầy lập lòe quanh các gộp suối, vào đêm trăng rằm từ cây thị lớn có tiếng u u dồi dội rồi rúc lên từng hồi nghe lạnh cả người. Đến sau này tôi mới biết là tiếng vọng của gió, của đom đóm tháng ba, của tiếng cú gọi bạn nhưng lúc ấy mọi người đều phải hù dọa bầy trẻ đồng rừng vì vượt qua triền đồi xa kia là bao nguy hiểm chực chờ, bàn tay của dân xóm Hóc không thể ôm hết và chở che cho hết những đôi chân sáo luôn hiếu kỳ mọi thứ trên đời.

Mộ ông cùng tiểu đội du kích nông dân đã được tìm thấy nhờ một nhà ngoại cảm trong chuyến ra Trung tìm hài cốt liệt sĩ. Tôi về khi có những cơn mưa chao nghiêng về phía đồng rừng, giăng giăng một làn nước mỏng bám trên tán lá của cây thị lớn. Bà im lặng ngồi kẹp nón, tay cầm bản sơ đồ đánh dấu chỗ ông bị vùi lấp và mắt nhắm nghiền mặc mưa đọng đầy trên gương mặt hằn vết chân chim bởi chịu đựng hai cuộc chiến đi qua trong đời. Nhát cuốc bập vào gò mối có bụi trâm bầu ngay cây thị lớn và lộ dần màu đất đen xốp, bà gạt mọi người tay run rẩy ôm từng vốc đất đen rải nhẹ lên tấm lụa trắng cùng ít di thể sót lại.

Tôi ứa nước mắt, vì từ nhỏ lớn lên đã chạy nhảy rong chơi, đã đi về ngày ngày hai buổi ngang qua gò mối này nhưng không hề biết ông đang ở đây, ở ngay cạnh mọi người. Chỉ có bà, bằng sự linh cảm từ một cõi xa xăm nào đó luôn vọng về vào mỗi buổi chiều sa mưa có tiếng cuốc khắc khoải gọi bạn, mỗi buổi sáng ngút ngàn sương núi có chút gió hây hây đổ về và cả ban trưa, trong thinh không vòng vọng tiếng chim gù. Ông về lại với bà để chiều chiều từ quả đồi này được ngắm nhìn dãy đèo Cả có đỉnh Thạch Bi Sơn ngàn năm mây trắng, nơi đó còn có hòn Vọng Phu ngóng ra biển cả với từng đám mây dần trôi về cánh đồng rừng.

Dì Hiên từng tiễn tôi vào phố dọc theo con suối mọc đầy cây cơm nguội chen với đám cỏ xanh mượt. Dì bảo: "Núi lên phố học giỏi để về giúp làng...". Tôi nhìn dì, vẫn đôi mắt đen láy trong veo, vẫn dáng người thanh mảnh tựa vào chân cầu đang mùa nước cạn. Bàn tay mịn màng xưa kia giờ dần thô ráp, đen sạm và tôi chợt nhớ chú Thiên có mái tóc bàn cuốc vẫn chưa có vợ. Tôi thấy dì giống chiếc cầu gỗ cũ cứ lắt lay trong bốn mùa dịch chuyển, còn mẹ buồn buồn: "Lúc nhỏ con Hiên bị động kinh sau đợt địch càn đốt nhà ngoại, lấy chồng sẽ khổ".

Một người, hai người họ đến rồi đi còn dì thì cứ thơ thẩn tìm hái những đóa hoa vạn thọ qua mỗi dịp xuân sang đem cất vào chái bếp cho năm sau, hoa vàng nở rộ và tôi, từ nơi đất phố trong mỗi đợt nắng hanh hanh se lạnh chuẩn bị giao mùa lại nhớ dì đứng bên lối đi giữa hai luống hoa vàng rực cùng ong bướm rập rờn. Năm lũ lớn, nước ngập be bờ, lúa đang thì con gái bị nước phủ tràn mênh mông trắng xóa, dì đứng bên này bờ suối nghe nước réo ồ ồ trong nỗi đau thắt ngực và căn bệnh bộc phát. Dòng suối của tuổi ấu thơ có dì và tôi vào những đêm trăng sáng, vào những ngày hè thơ thẩn tìm hái trái cơm nguội đã cuộn lấy dì, nhận chìm và kéo đi phăng phăng. Dì nằm lại dưới chân cầu cũ, nơi bao lần dì tiễn tôi đi và tôi từng tặng dì đôi dép nhựa có màu hoa thị, nhưng đôi dép ấy, dì đã để lại trên bờ, nó mòn vẹt cả đế và bạc màu đất đồng rừng.

Đám giỗ dì Hiên, chú Thiên phải mất hai ngày đi khắp xóm hái lá gai dồn về đầy sân. Loại lá mặt xanh, mặt trắng đem vò cứ kêu sột soạt, luộc vắt ráo nước quết cùng gạo nếp tượng rằn bỏ nhân đậu xanh pha đường rồi hấp cách thủy. Khi ăn, cứ dẻo quánh ngòn ngọt bùi bùi, thơm thơm mùi lá, mùi đồng, mùi đất. Chả là, lúc dì còn sống rất thích nên mỗi lần giỗ ông tôi, dì hay làm lại còn dấm dúi cho chú Thiên, trả công chú phụ giã hàng chục cối đứ đừ mà tay lực điền cuồn cuộn cơ bắp mới quết nổi. Xong việc, chú khoác: "Tao được nắm tay Hiên nghe tụi bây". Cả bọn cười: "Lại xạo, nó ra sao?". Chú hấp háy mũi: "Mềm như bông và thơm mùi... lá sả!".

Lần này, không còn hình bóng của dì một mình cặm cụi với xấp lá, thau đường, chảo đậu xanh quết nhuyễn bên lò than rực hồng ánh lửa mà những người vợ của đám bạn tôi ở đồng rừng đến giúp. Họ cười đùa, nói chuyện thời vụ, hoa màu, đất giồng tay thoăn thoắt gói buộc cùng rổ to, rổ nhỏ có chú Thiên ra vào châm nước cho những nồi hấp đang sôi sùng sục.

Những nia thức ăn bày dưới vườn cây rợp mát là phần của những đứa trẻ ưu tiên dùng trước như ngày xưa dành cho bọn tôi, cũng chí chóe chỗ ngồi, cũng so bì từng đĩa thịt luộc của con nhà Linh, Tâm, Hiển. Khác chăng lúc ấy bà tôi cùng dì Hiên tất bật thêm canh, thịt, mắm, còn giờ là những bà mẹ của chúng. Khác chăng, xong đám là mỗi đứa được dì đưa cho gói bánh để vù lên đồi mà trông bò, tháo nước ruộng, đuổi chim phá rẫy. Còn giờ chúng phải đi học nên trong cặp mỗi đứa cũng có gói bánh từ tay chú Thiên cùng nỗi hân hoan đọng nơi khóe mắt với nụ cười méo xệch. Từ nơi đồi cao, tôi nhìn về phía cây cầu cũ, bây giờ đã là đập chắn nước vững chắc để chia ra nhiều nhánh đổ về cánh đồng hai vụ, xa trên kia, nơi bọn trẻ ngày xưa thả bò là các vườn đồi, những mái nhà ngói đỏ ẩn mình bên những cụm tre để chiều chiều từng đàn cò phía đồng bằng xoải cánh bay về đậu rợp.

Mỗi lần tôi về đồng rừng rồi ra phố, chú Thiên luôn đưa tiễn, chú đứng tận nơi xa, tôi biết sau lưng chú, bên kia là xóm Hóc, nơi tận cùng của vùng núi Chóp. Còn ở đỉnh đồi cao này nhìn ra xa ngái là trùng trùng điệp điệp những dãy đồi lô nhô uốn lượn, chất chồng lớp lớp từng con suối, dòng sông để tuôn về biển cả và tồn tại mãi với thời gian. Tôi nhìn, nhìn nữa rồi quay người rời khỏi vùng đồi gió lộng theo con đường mòn cũ xuôi ra quốc lộ. Chú Thiên theo sau và bàn tay chìa ra quả thị đầu mùa như năm nào của dì Hiên, tôi thấy trong mắt chú như đang đọng lại tiếng vọng đồng rừng vào những chiều sa mưa...

biSlT36J.jpgPhóng to

Áo Trắng số 13 (ra ngày 15-7-2009) hiện đã có mặt tại các sạp báo.

Mời bạn đọc đón mua để thưởng thức được toàn bộ nội dung của ấn phẩm này.

 HUỲNH THẠCH THẢO (Phú Yên) 
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên