Thú vui quan trọng nhất đối với tôi là làm việc cật lực và thu thêm nhiều lợi nhuận.
Lý Gia Thành
![]() |
Chủ doanh nghiệp Trường Giang là Lý Gia Thành, một nhà công nghiệp gốc Trung Quốc đại lục. Lý Gia Thành đã thúc chiếc máy đúc khuôn đắt tiền của mình phải cho ra sản phẩm là những cục nhựa tròn hình cái đầu càng nhanh càng tốt. Vào năm 1967, búp bê G.I. Joe vẫn còn bán chạy đến nỗi Hasbro lo ngại nguồn cung có khả năng sẽ bị thiếu và công ty sẽ phải đối mặt với tình trạng tồn hàng đống thân búp bê G.I. Joe không đầu, thứ mà Hasbro không thể bán được.
Trong tâm trạng lo lắng mỗi lúc một tăng, Stephen Hassenfeld, một trong số những người quản lý trong công ty gia đình Hasbro, đã gọi điện từ Mỹ gặp Lý Gia Thành và thúc giục ông mua thêm một máy đúc khuôn thứ hai để đảm bảo Công ty Trường Giang có thể thực hiện đầy đủ đơn đặt hàng của Hasbro. Dù sẵn sàng bỏ ra một khoản tiền vốn đầu tư lớn nhưng Lý Gia Thành vẫn nhận ra rằng việc có thêm một cái máy cũng không giải quyết được vấn đề cấp bách của Hasbro. Chuyện đặt hàng và lắp đặt một chiếc máy phức tạp như vậy đòi hỏi phải mất thêm từ 3-4 tháng nữa. Hasbro không thể chờ lâu đến vậy.
Cuộc trao đổi của Hassenfeld với Lý Gia Thành chẳng làm cho gia đình người Mỹ dịu được mấy nỗi lo lắng. Hong Kong khi đó là một thể chế bất ổn khác thường với nhiều cuộc bạo loạn mang hơi hướm cánh tả xảy ra khắp thành phố do bất ổn chính trị tại Trung Quốc đại lục ở sát bên gây ra. Trong khi cả hai đang nói chuyện điện thoại với nhau, một tiếng nổ lớn đã làm rung chuyển văn phòng làm việc của Lý Gia Thành.
Một quả bom được đặt trong một chiếc hộp mang dòng chữ “Hãy coi chừng những người yêu nước” đã nổ tung tại một điểm cách nhà máy Cheung Kong chỉ 6m. Hassenfeld nghe thấy được cả tiếng nổ từ trong điện thoại. “Cái gì vậy?” - Hassenfeld hỏi. “Một quả bom” - Lý Gia Thành trả lời không úp mở. “Vì vậy, ông nên trao cho chúng tôi một huân chương thay vì hối thúc chúng tôi về đơn hàng,” Lý Gia Thành nói tiếp.
Lý Gia Thành nhận ra cách duy nhất để trấn an Hassenfeld là phải cung cấp cho Hasbro sản phẩm đầu búp bê mà họ cần. Dù Lý Gia Thành không được học hành đào tạo bài bản như một kỹ sư nhưng cho đến lúc đó, ông đã làm việc với những cái máy đúc nhựa được 20 năm rồi. Lý Gia Thành đã có đầy mình kinh nghiệm về việc xử lý các tình huống xảy ra trong một nhà máy sản xuất.
Sau khi đọc từ đầu chí cuối một số tạp chí công nghiệp và tiến hành một cuộc nghiên cứu khác, ông trở nên tự tin rằng mình đã phát hiện một cách cải tiến chiếc máy hiện có của mình sao cho năng suất tăng gấp đôi. Ông đem ý tưởng này đến trình bày cho một kỹ sư thâm niên do Hasbro cử đến nhà máy của ông để giám sát việc sản xuất.
Lý Gia Thành “chắc chắn tới 99%” rằng việc cải tiến sẽ hiệu quả nhưng đòi hỏi phải có một khoảng thời gian tạm ngưng sản xuất. Ông cần phải dừng chiếc máy trong 8 tiếng đồng hồ để thay đổi thiết kế của nó. Vị kỹ sư, theo như lời của Lý Gia Thành mô tả, đã “giận sôi lên”. Ông này đã lên lớp: “Tôi đã có tới 30 năm kinh nghiệm nhưng chưa bao giờ nghĩ tới cách làm như thế này”.
Lý Gia Thành đề nghị ông ta nên lui về khách sạn của mình nghỉ ngơi, thư giãn trong khi Lý Gia Thành hoàn tất việc cải tiến chiếc máy và ông ta có thể quay lại làm vào sáng ngày mai. Thay vì làm theo lời đề nghị đó, vị kỹ sư đang trong cơn giận dữ đã gọi điện cho sếp của mình ở Mỹ, đánh thức sếp ngay giữa đêm khuya để than phiền về kế hoạch của Lý Gia Thành.
Với một vẻ hoàn toàn tự tin, Lý Gia Thành cố gắng mềm mỏng thuyết phục Hasbro cho mình một cơ hội. Ông cho máy đúc ngừng hoạt động và rồi sau 6 giờ sửa qua nó, ông đã hoàn tất công việc. Khi Lý Gia Thành khởi động lại cỗ máy, nó đã cho ra một loạt đầu búp bê với tốc độ nhanh hơn trước gấp hai lần giống như ông đã dự đoán.
Ngày hôm sau, vị kỹ sư ngạc nhiên nhưng hài lòng đã quay lại nhà máy và cùng với Lý Gia Thành tiếp tục cải tiến thêm. Và kết quả là năng suất lại tăng gấp đôi. Hasbro không còn lo thiếu đầu búp bê G.I. Joe nữa.
Kiểu làm việc sáng tạo và đáng tin cậy này đã biến Lý Gia Thành và hàng nghìn nhà công nghiệp nhỏ ở khắp Đông Á giống như ông thành những nhân tố then chốt trong hệ thống sản xuất công nghiệp ngày càng toàn cầu hóa.
Quay trở lại đầu những năm 1950, các công ty Mỹ hoạt động trong một loạt các ngành tiêu dùng đa dạng đã bắt đầu đặt hàng nhiều công ty ở châu Á sản xuất linh kiện hoặc thành phẩm để bán tại Mỹ. Sau khi được sản xuất, hàng hóa thường được gắn nhãn các thương hiệu nổi tiếng của Mỹ trước khi được bán tới tay người tiêu dùng Mỹ; các nhà công nghiệp nước ngoài vẫn chẳng được người tiêu dùng biết đến tên tuổi.
Trong vài trường hợp, khách hàng Mỹ là những nhà nhập khẩu hay bán lẻ đặt mua những sản phẩm mới, rẻ từ châu Á để về bán lại ở thị trường trong nước. Trong một số trường hợp khác, nhiều nhà sản xuất Mỹ thuê các nhà công nghiệp châu Á sản xuất toàn bộ hay một phần sản phẩm của họ thay vì tự làm tại Mỹ. Phương pháp này dần được biết đến với khái niệm “thuê ngoài ngoại biên” (offshore outsourcing).
Qua nhiều thập niên, những tập quán kinh doanh này đã khiến cho việc sản xuất ngày càng được đẩy sang châu Á, điều đã và đang trở thành một phương tiện không thể tách rời với sự phồn vinh ngày càng tăng của khu vực cho tới ngày nay. Thuê ngoài ngoại biên cũng giúp châu Á hội nhập hệ thống thương mại toàn cầu, sâu đến mức nó mãi mãi trở thành cầu nối liên kết các nền kinh tế giữa phương Đông và phương Tây. Lý Gia Thành không đơn thuần chỉ là nhà cung cấp cho Hasbro mà ông là yếu tố không thể thiếu trong thành công của nhà sản xuất đồ chơi Mỹ.
Thật vậy, quan hệ của Lý Gia Thành với Hassenfeld ngày càng gắn chặt vào nhau đến mức họ gần như trở thành một gia đình lớn. Lý Gia Thành đặc biệt thích chàng trai trẻ Alan Hassenfeld, em của Stephen. Alan Hassenfeld được cử đến Hong Kong lần đầu tiên vào năm 1968, thậm chí trước khi tốt nghiệp đại học, để làm việc với các nhà cung cấp châu Á của Hasbro.
Lý Gia Thành đã che chở, giúp đỡ cho Alan, mời Alan đi chèo thuyền thưởng ngoạn buổi chiều cuối tuần với hai con trai của mình là Lý Trạch Cự và Lý Trạch Giai, chỉ cho Alan biết cách sử dụng những chiếc máy đúc khuôn nhựa như thế nào, chia sẻ bát mì ăn trưa với Alan trong lúc đang ngồi xổm ở một góc nhà máy của ông.
Dù bận đến thế nào chăng nữa, Lý Gia Thành vẫn luôn nhất quyết phải ra tận sân bay của Hong Kong đón Alan và đi cùng chàng trai này đến đảo Hong Kong mỗi khi Alan bay đến thành phố này. Alan kể Lý Gia Thành hay “KS” như cách mà anh thường gọi vị doanh nhân họ Lý, “đã ảnh hưởng rất lớn lên cuộc đời tôi” và “trở thành một người giống như là cha của tôi”.
Mối quan hệ cá nhân giữa Lý Gia Thành và Alan vô cùng thân thiết nhưng quan hệ làm ăn kinh doanh của họ thì cũng vẫn tiêu biểu như bao người khác. Hasbro bắt đầu thuê các công ty châu Á sản xuất đồ chơi cho mình từ đầu những năm 1960. Ban đầu, công ty Mỹ mua hàng từ Nhật Bản. Thời gian đầu, sản phẩm được thuê làm là những món đồ chơi có thể xếp gọn được và quần áo cho búp bê.
Sau đó, Haspro đặt sản xuất búp bê tại Hong Kong, Hàn Quốc và Đài Loan. Đến những năm 1970, gần ¼ đồ chơi của Haspro là do các nhà sản xuất châu Á làm ra. Vào thời kỳ đầu thập niên 1970, Alan đã bỏ ra sáu tháng mỗi năm, ngồi tại một căn phòng ở khách sạn Hilton của Hong Kong để giám sát các nhà cung cấp của Hasbro trong toàn khu vực. Chàng trai này dán đầy các bức điện tín lên tường xung quanh giường ngủ của mình để theo dõi các đơn hàng.
Ngành sản xuất đồ chơi chỉ là một trong nhiều ngành được chuyển sang châu Á sản xuất ở quy mô lớn trong giai đoạn đầu. Các ngành khác bao gồm dệt sợi, may mặc, giày da và hàng điện tử tiêu dùng. Qua nhiều thập niên, các công ty Mỹ hoạt động trong những ngành nghề tiên tiến hơn cũng thuê các nhà sản xuất châu Á làm sản phẩm cho họ, trong đó có cả máy vi tính và thiết bị điện tử công nghệ cao khác.
Lý do chính của việc chuyển sang sản xuất tại châu Á xuất phát từ vấn đề chi phí. Bản chất những ngành kinh doanh thâm dụng lao động, chẳng hạn như đồ chơi và may mặc, khiến tiền lương trở thành một yếu tố quan trọng đối với khả năng cạnh tranh của một sản phẩm. Vì có mức độ phát triển cao hơn đáng kể nên Mỹ ắt hẳn không thể cạnh tranh nổi với châu Á còn nghèo và đông dân về mặt chi phí nhân công.
Một công nhân nhà máy ở Hong Kong năm 1970 chỉ kiếm được 33 xu/giờ tức chỉ bằng 1/10 tiền lương được trả của một công nhân Mỹ làm trong ngành sản xuất. (Lương công nhân tại Singapore và Hàn Quốc thậm chí còn thấp hơn). Kết quả là những khoản tiền tiết kiệm chi phí mà các công ty Mỹ có được nhờ vào việc thuê ngoài ngoại biên sang châu Á đã trở nên hấp dẫn đến mức không thể cưỡng lại được. Chi phí sản xuất một sản phẩm đầu búp bê G.I. Joe tại Mỹ vào những năm 1970 cao gần gấp 7 lần tại Hong Kong, thậm chí là sau khi đã tính cả chi phí chuyên chở bằng tàu biển.
Châu Á trở thành cơ sở sản xuất toàn cầu chủ chốt không chỉ vì lý do có nhân công giá rẻ. Thế giới đang phát triển vào thập niên 1960 và 1970 có vô số người đói ăn sẵn lòng chấp nhận làm việc với mức thù lao rẻ mạt. Thế nhưng, các ngành sản xuất không dịch chuyển tới những nơi như châu Phi hay Trung Đông với một mức độ lớn như dịch chuyển sang châu Á.
Điểm khác biệt chính là các chính sách kinh tế mà các chính phủ châu Á theo đuổi. Môi trường kinh tế ổn định và các kế hoạch điều tiết tạo thuận lợi cho công việc kinh doanh được thiết lập tại Hong Kong, Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore đã thúc đẩy phát triển một môi trường dễ chịu và thân thiện đối với các doanh nhân nước ngoài hơn rất nhiều so với bất kỳ một nơi nào khác trong thế giới đang phát triển.
Hệ thống thông tin liên lạc hoàn thiện cùng mạng lưới giao thông nhanh hơn và đáng tin cậy hơn đã khiến cho quá trình chuyển dời sản xuất sang châu Á diễn ra dễ dàng hơn, rẻ hơn và ít rủi ro hơn. Các công ty sản xuất châu Á như Trường Giang cũng ngày càng trở nên chuyên môn hơn rất nhiều trong một khâu của quy trình sản xuất và điều này đã làm cho họ hiệu quả hơn và có sức cạnh tranh nhiều hơn. Chẳng hạn như các nhà sản xuất đồ chơi Mỹ chưa bao giờ phải đảm nhận khâu sơn hay gắn tóc cho đầu búp bê G.I. Joe bằng tay.
Sự dịch chuyển sản xuất sang châu Á có nhiều lợi ích ngày càng mở rộng. Các công ty Mỹ tiết kiệm được tiền, có thêm lợi nhuận và giải phóng được các nguồn quỹ dành cho những dự án đầu tư mới. Họ chuyển số tiền tiết kiệm chi phí có được từ các cơ sở sản xuất đặt tại châu Á sang cho người tiêu dùng Mỹ dưới hình thức giá bán thấp và điều này cho phép người Mỹ được hưởng một chất lượng cuộc sống tốt hơn.
Tại châu Á, sản xuất gia tăng giúp tạo ra nhiều hàng hóa xuất khẩu và nâng cao thu nhập. Các nhà máy mọc lên tại Hong Kong và các nước hay vùng lãnh thổ láng giềng đã đem lại nhiều công ăn việc làm mới cho người dân châu Á. Nhiều công nhân làm việc trong các nhà máy này đã bị hấp dẫn rời xa ruộng vườn và lần đầu tiên được đưa đến nền kinh tế công nghiệp hóa. Công việc của họ thường là vô cùng nặng nhọc; trong một số trường hợp là độc hại cho sức khỏe.
Họ làm quần quật trong nhiều giờ, gập người trên những chiếc máy may hay lắp siết các linh kiện tivi với nhau trong một dây chuyền sản xuất. Dù sao, mức lương mà họ được hưởng cũng lớn hơn rất nhiều so với những gì mà họ thu được từ những cánh đồng lúa của mình. Các nhà máy trở thành những cây đèn hiệu soi sáng hi vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn và thúc giục người nghèo rời bỏ làng quê đến những khu công nghiệp mới sáng chói của khu vực.
Tuy nhiên, vào những năm 1990, làn sóng dịch chuyển sản xuất ồ ạt sang châu Á có chi phí thấp, đặc biệt là việc thuê ngoài (outsourcing) sản xuất của các công ty Mỹ sang châu Á, đã trở thành vấn đề kinh tế dễ gây ra tranh chấp nhất giữa Mỹ và châu Á. Cùng lúc với việc ngày càng có nhiều nhà máy giống như Trường Giang của Lý Gia Thành mở ra ở khắp châu Á thì ngày càng có nhiều nhà máy phải đóng cửa tại Mỹ.
Công ăn việc làm do các nhà máy này tạo ra cũng ra đi cùng với chúng. Người Mỹ than phiền rằng châu Á đang “đánh cắp” việc làm của họ khi nhiều khu vực sản xuất gần như đã bị xóa sổ do sự cạnh tranh của châu Á. Chẳng hạn như vào năm 1990, có gần 1 triệu người Mỹ làm việc trong ngành may mặc; ngày nay, con số đó đã giảm xuống dưới 200.000.
Gia đình Hassenfeld đã cố gắng giữ lại càng nhiều công việc sản xuất tại Mỹ đến mức có thể chấp nhận được về mặt kinh tế nhưng cuối cùng họ cũng đành phải chịu thua trước thực tế tài chính. Năm 1998, họ đóng cửa nhà máy sản xuất đồ chơi chính của Hasbro tại đảo Rhode (dù một số sản phẩm trong đó có board game hiện vẫn đang được làm tại Mỹ).
Sự phát triển đi lên đều đặn của Phép màu đã và đang đe dọa công ăn việc làm trong ngày càng nhiều các lĩnh vực của nền kinh tế Mỹ, làm dấy lên nhiều tiếng kêu la phản đối của các chính trị gia, các thành viên nghiệp đoàn lao động, các nhà hoạt động xã hội chống thương mại đòi cắt bớt quan hệ kinh tế giữa Mỹ với châu Á.
Trong khi đó, tại châu Á, Phép màu có thể xảy ra được là nhờ vào việc sản xuất những loại hàng hóa tiêu dùng rẻ tiền chất lượng thấp để xuất khẩu sang Mỹ và châu Âu. Tốc độ tăng trưởng nhanh của tất cả các quốc gia trải qua Phép màu đã được chính làn sóng dịch chuyển sản xuất sang châu Á khởi động cài số.
Sự phát triển của Hong Kong gần như hoàn toàn bị dẫn dắt bởi sự dịch chuyển trong khu vực sản xuất trên toàn cầu. Năm 1950, với tư cách là một phần của đế chế Anh khi đó, Hong Kong chủ yếu là một trung tâm tài chính và thương mại còn sản xuất thì chỉ giữ ở mức độ tối thiểu.
Tuy nhiên, đến năm 1975, Hong Kong đã đạt kim ngạch xuất khẩu trị giá 3,5 tỉ USD đối với các mặt hàng may mặc, đồ chơi, dệt sợi và điện tử. Nhiều năm sau Chiến tranh thế giới thứ II, một nhóm lớn các nhà công nghiệp nhỏ như Lý Gia Thành đã mở cửa hàng tại vùng đất nhượng địa này và bắt đầu xuất khẩu hàng hóa của mình sang Mỹ và châu Âu không lâu sau đó.
Thông qua quá trình này, khu vực tư nhân đã lèo lái Phép màu của Hong Kong gần như hoàn toàn bằng chính sức mình. Không có những Shigeru Sahashi đứng ra “chọn những kẻ chiến thắng”, không có sự cộng tác kiểu “mô hình châu Á” giữa chính phủ và doanh nghiệp. Dù thống đốc người Anh và một nhóm nhỏ các công chức của ông này thật sự cũng có hỗ trợ cho cộng đồng doanh nghiệp Hong Kong, chẳng hạn như thông qua việc phát triển đất công thành những khu công nghiệp giống như Singapore, nhưng đóng góp chính của họ vẫn là việc hoạch định các chính sách thông minh.
Môi trường kinh tế ổn định, hiệu quả, cởi mở và không có tham nhũng vốn thu hút nhiều doanh nhân giống Alan Hassenfeld cũng đã cho phép các nhà doanh nghiệp như Lý Gia Thành xây dựng công ty của mình. Những công ty mới thành lập này khi đó đã lợi dụng hệ thống thương mại toàn cầu chưa bao giờ tự do hơn thế để xuất khẩu đi khắp thế giới.
Hong Kong trở thành một con hổ là nhờ vào các thị trường tự do, thương mại tự do và các lực lượng toàn cầu hóa chứ không phải là vì có sự can thiệp của chính phủ. Nhà kinh tế học Milton Friedman đã khẳng định Hong Kong là “ví dụ hay nhất” về một xã hội đương đại “dựa chủ yếu vào sự trao đổi tự nguyện thông qua thị trường để tổ chức hoạt động kinh tế của mình”.
Vì thế, lịch sử Phép màu của Hong Kong đã làm dấy lên nhiều câu hỏi nghiêm túc về giá trị của “mô hình châu Á” trong phát triển. Hong Kong đã chứng minh rằng các nước cũng có thể đạt được tốc độ tăng trưởng tương tự qua việc ứng dụng sự kết hợp giữa hai yếu tố lãnh đạo tốt và thị trường mở, không cần phải có sự đỡ đầu trực tiếp của nhà nước hay giới chức quản lý khắc nghiệt quá mức chịu đựng.
Bất chấp tất cả mọi sự chú ý và khen ngợi dành cho mô hình phát triển do MITI xây dựng tại Nhật Bản, thành công của Hong Kong chứng tỏ cấu thành chính của Phép màu là chủ nghĩa tư bản lỗi thời và đơn giản. Thậm chí tại các quốc gia mà nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nỗ lực phát triển như Hàn Quốc thì các chính sách của chính phủ cũng phải kết nối với những lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế nước mình trên phạm vi kinh tế toàn cầu.
Nếu xét theo góc độ phân tích này thì không nhất thiết đòi hỏi phải có giới chức độc đoán của Nhật Bản và Hàn Quốc thì nền kinh tế mới đạt được Phép màu. Nói cách khác, vai trò của họ đã bị thổi phồng.
Dù vậy, ta vẫn không thể phủ nhận hoàn toàn “mô hình châu Á”. Các nền kinh tế chịu sự can thiệp lớn hơn của nhà nước đã phát triển khác xa so với Hong Kong. Với nhiều nhà công nghiệp nhỏ được các công ty thương mại và tài chính mạnh hỗ trợ, bản chất nền kinh tế của Hong Kong ít nhiều vẫn giữ nguyên qua nhiều thập niên.
Trái lại, Nhật Bản và Hàn Quốc đã thay đổi bản chất nền kinh tế nước mình ở một mức độ lớn hơn Hong Kong thông qua việc xây dựng nhiều ngành công nghiệp nặng và công nghệ cao. Chẳng có một Posco hay Hyundai nào ở Hong Kong. Những người khởi xướng “mô hình châu Á” khẳng định sự khác biệt nằm ở cách áp dụng chính sách công nghiệp, tốc độ tăng trưởng chỉ là một trong nhiều mục tiêu của “mô hình châu Á”.
Còn có một mục tiêu khác là phải biến đổi toàn bộ cấu trúc của nền kinh tế thành những ngành có giá trị cao hơn. Quan điểm này cho rằng sự biến đổi then chốt trên có thể sẽ không bao giờ xảy ra hoặc xảy ra nhưng không nhanh, không thành công nếu ở trong bối cảnh kinh tế thị trường tự do thuần túy. Trường hợp của Hong Kong đã chứng tỏ lập luận này có thể đúng. Tranh cãi về “mô hình châu Á” vì vậy vẫn tiếp tục diễn ra.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận