26/06/2004 14:24 GMT+7

Quan điểm quốc gia hay toàn cầu?

VŨ THẾ DŨNG
VŨ THẾ DŨNG

TTCN - Hiện nay, một số các qui hoạch ngành của chúng ta vẫn có xu hướng bảo hộ và tự mình làm hết mọi khâu trong mọi ngành. Yếu tố hợp tác, chuyên môn hóa toàn cầu trong từng ngành chưa thể hiện rõ nét trong các qui hoạch.

Qui hoạch các ngành sản xuất:

Phát triển kinh tế gắn chặt với phát triển lợi thế cạnh tranh quốc gia. Khác với khái niệm lợi thế so sánh trước đây, khái niệm lợi thế cạnh tranh là chuyển trọng tâm từ lợi thế ở các tài nguyên thiên nhiên, đất, lao động (phổ thông) hay lợi thế có được từ chi phí sản xuất tương đối thấp nhờ vào các yếu tố này sang lợi thế từ năng lực cạnh tranh của các ngành công nghiệp của một quốc gia và các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp đó trên phạm vi toàn cầu, với lợi thế không giới hạn trong sản xuất mà mở rộng ra tất cả các khâu trong một chuỗi giá trị của ngành và doanh nghiệp.

Thật vậy, ngành và các doanh nghiệp mới chính là những “đấu thủ” trên trường quốc tế. Chính vì vậy công tác qui hoạch và phát triển ngành đóng vai trò then chốt trong phát triển kinh tế. Bài toán đầu tư vào đâu, ngành nào, chính sách nào để hấp dẫn nhà đầu tư (trong nước và quốc tế) là bài toán đầy thử thách.

Chúng ta chứng kiến các ngành dệt may, da giày trong nỗi bức xúc lớn đối với các nguyên phụ liệu đầu vào (80% nhập khẩu). Tương tự với ngành xe hơi, tỉ lệ nội địa hóa trong một chiếc xe do Việt Nam lắp ráp còn quá thấp (2-5%). Một vấn đề nóng khác mà hiện nay đang được bàn rất nhiều là vấn đề xây dựng những thương hiệu mạnh trong nước và quốc tế. Vấn đề này về thực chất cũng nằm trong quan điểm đầu tư qui hoạch ngành.

Câu hỏi đặt ra: Có phải cứ thiếu nguyên phụ liệu hay tỉ lệ nội địa hóa thấp thì phải đầu tư? Đã đến thời điểm thích hợp để xây dựng các thương hiệu quốc tế? Chúng ta thấy rõ rằng đang tồn tại những mâu thuẫn trong quan điểm qui hoạch: giữa khuyến khích xuất khẩu và thay thế nhập khẩu, hay giữa quan điểm toàn cầu và quan điểm quốc gia.

Công ty đa quốc gia hay công ty toàn cầu?

Khái niệm công ty đa quốc gia (multinational corporation) mà chúng ta vẫn hay sử dụng để chỉ các công ty lớn có tầm hoạt động trên phạm vi nhiều quốc gia. Trên thực tế từ thập niên 80, do xu thế hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, cấu trúc và quan điểm về lợi thế cạnh tranh của các ngành và các công ty trên toàn thế giới đã có những thay đổi sâu sắc dẫn đến sự phân hóa về chiến lược cạnh tranh và hình thành hai nhóm cơ bản: nhóm đa quốc gia (multidomestic/ multinational) và nhóm toàn cầu (global).

Mô hình công ty đa quốc gia kiểu truyền thống bao gồm các chi nhánh ở nhiều quốc gia, mỗi chi nhánh là một chuỗi giá trị, hay cấu trúc hoàn chỉnh bao gồm hầu hết các hoạt động như sản xuất, phát triển sản phẩm, tài chính, tiếp thị, dịch vụ, bán hàng. Các chi nhánh này được phân quyền và hoạt động khá độc lập với các chi nhánh khác.

Kiểu cấu trúc tổ chức này có ưu điểm là phản ứng nhanh với các khác biệt và biến động của từng thị trường nội địa (hay thị trường nội địa là phạm vi phục vụ chính của mỗi chi nhánh). Nhưng nó có khuyết điểm lớn là không tận dụng được tính kinh tế nhờ qui mô của một thị trường toàn cầu và tính kém hiệu quả khi mỗi chi nhánh đều phải có đầy đủ tất cả các bộ phận chức năng nên chi phí tăng và khả năng hợp tác chia sẻ thông tin/ kinh nghiệm kém. Các công ty nhóm này khi thực hiện đầu tư FDI thường đặt vấn đề độ hấp dẫn của thị trường nội địa (của quốc gia họ đầu tư) lên hàng đầu.

Trong khi đó, các công ty theo mô hình toàn cầu chỉ có duy nhất một chuỗi giá trị hay chỉnh thể các hoạt động tạo giá trị trên phạm vi toàn cầu. Các hoạt động này thay vì phân tán vào từng chuỗi giá trị nhỏ của các chi nhánh như trong mô hình đa quốc gia, thì tập trung tại một địa điểm để tận dụng qui mô và tính tập trung chuyên môn hóa.

Chẳng hạn hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) thì tập trung tại Mỹ (nơi có cộng đồng nghiên cứu khoa học hàng đầu thế giới), hoạt động sản xuất thì tập trung tại Trung Quốc, Việt Nam (chi phí rẻ), thiết kế thời trang thì tập trung tại Pháp (trung tâm thời trang), hoạt động tiếp thị và bán hàng thì có thể phân tán trên thị trường toàn cầu.

Cả công ty là một chỉnh thể duy nhất phục vụ thị trường toàn cầu, với các nhãn hiệu toàn cầu và đối thủ cạnh tranh toàn cầu. Khác với nhóm đa quốc gia, các công ty toàn cầu khi xem xét quyết định vị trí đặt một hoạt động của mình (FDI) thường cân nhắc các lợi thế có được từ địa điểm hay tính thuận lợi môi trường kinh doanh của một quốc gia.

Ví dụ như chọn Ấn Độ để đặt các hoạt động phát triển phần mềm vì Ân Độ có lực lượng kỹ sư chất lượng cao cộng với năng lực tiếng Anh xuất sắc. Rõ ràng trong trường hợp này cân nhắc chiến lược đầu tư của các công ty dựa trên phân công/ hợp tác chuyên môn hóa trên phạm vi toàn cầu chứ không chỉ dựa vào độ hấp dẫn của thị trường nội địa.

Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra những lực đẩy quan trọng thúc đẩy sự phát triển áp đảo của mô hình toàn cầu như cách mạng công nghệ trong truyền thông, thông tin, giao thông vận tải hay khuynh hướng đồng nhất trong tiêu dùng của khách hàng quốc tế.

Quan điểm quốc gia hay quan điểm toàn cầu trong đầu tư ngành?

Cấu trúc công ty thay đổi đi kèm với sự thay đổi trong cấu trúc các ngành công nghiệp, và điều này lại tác động quan trọng lên sự thay đổi trong quan điểm qui hoạch ngành.

Trên phương diện quốc gia, hầu hết các chính phủ đều có xu hướng ưu tiên cho mô hình truyền thống đa quốc gia - nghĩa là ưu tiên cho các nhà đầu tư trong nước hay nước ngoài với vốn FDI đầu tư trọn vẹn cả một chuỗi giá trị hay hệ thống giá trị (từ các nguyên vật liệu, nghiên cứu phát triển, đến sản xuất, dịch vụ và bán hàng – nội địa và xuất khẩu).

Vì quốc gia nào cũng có xu hướng thích tự chủ và hưởng toàn bộ chuỗi giá trị của một ngành. Điều này được minh chứng rất rõ qua các chính sách yêu cầu tăng tỉ lệ nội địa hóa đối với các doanh nghiệp FDI hay các chính sách bảo hộ ngành thông qua thuế quan đối với hàng nhập khẩu, các chính sách thay thế nhập khẩu.

Chính sách này dựa trên một tiền đề quan trọng là độ lớn của nhu cầu trên thị trường nội địa. Nghĩa là để bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ, chính phủ đánh thuế cao các sản phẩm nhập khẩu mà trong nước có thể sản xuất (nhưng chi phí cao hơn nhiều).

Bằng cách này, chính phủ hi vọng các ngành công nghiệp non trẻ sẽ phát triển, chiếm lĩnh được thị trường nội địa (gần như không thể xuất khẩu ở những ngành này vì chi phí sản xuất rất cao), và khi đã có thị phần lớn thì các doanh nghiệp trong các ngành bảo hộ sẽ có khả năng tích lũy vốn, kinh nghiệm, năng lực và qui mô để giảm giá thành sản phẩm. Đi liền với chính sách thay thế nhập khẩu là quan điểm thu hút FDI dựa trên sự hấp dẫn của thị trường nội địa.

Tuy nhiên, giả định trên không đứng vững vì nước nghèo thì dân lấy tiền đâu mà tiêu dùng để có thị trường lớn. Lại nữa, giá của các sản phẩm bảo hộ luôn cao ngất ngưỡng (xe máy, xe hơi, viễn thông ở Việt Nam là minh chứng) thì lấy đâu kích thích nhu cầu phát triển. Và thế là càng bảo hộ, càng thay thế nhập khẩu càng hạn chế phát triển kinh tế, vốn FDI cũng không thu hút được tiếp vì thị trường nội địa không hấp dẫn.

Theo xu hướng toàn cầu, rất nhiều chính phủ các quốc gia phát triển như Nhật Bản; các nước công nghiệp hóa mới như Hàn Quốc, Singapore, Hong Kong... ; Các nước đang phát triển như Thổ Nhĩ Kỳ, Thái Lan, Brazil, Mexico đều chuyển sang khuynh hướng khuyến khích xuất khẩu, tức là thay vì yêu cầu các doanh nghiệp phải sử dụng các nguyên vật liệu kém cạnh tranh trong nước thì cho phép họ nhập khẩu từ thị trường quốc tế. Bằng cách này, các sản phẩm sản xuất trong nước sẽ có giá cả cạnh tranh hơn và do vậy có thể cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu (da giày, dệt may, đồ gỗ của ta hiện nay).

Tất nhiên đi kèm là việc mở cửa và cạnh tranh quốc tế trên thị trường nội địa. Theo đuổi chính sách khuyến khích xuất khẩu đòi hỏi các quốc gia lựa chọn các ngành công nghiệp chủ đạo và lựa chọn những hoạt động chiến lược trong từng ngành để đầu tư và phát triển. Việc lựa chọn này không còn nằm trong phạm vi ý muốn chủ quan của mỗi quốc gia mà phải được tính toán trên bình diện nghiên cứu phân công, hợp tác, chuyên môn hóa toàn cầu vì hầu hết các ngành công nghiệp hiện nay có chuỗi giá trị phân tán ở nhiều quốc gia.

Chúng ta cần lựa chọn trên cơ sở lợi thế hiện tại cũng như khuynh hướng phát triển của mình. Thu hút đầu tư trong nước cũng như quốc tế do vậy không còn chỉ dựa trên độ hấp dẫn của thị trường trong nước mà quay về điểm mấu chốt là các lợi thế từ môi trường kinh doanh. Vì lúc này chúng ta đang cạnh tranh để các công ty toàn cầu thiết lập một phần chuỗi giá trị của họ (sản xuất, nghiên cứu và phát triển, dịch vụ...) trên đất nước chúng ta.

Hiện nay, một số các qui hoạch ngành của chúng ta vẫn có xu hướng bảo hộ và tự mình làm hết mọi khâu trong mọi ngành. Yếu tố hợp tác, chuyên môn hóa toàn cầu trong từng ngành chưa thể hiện rõ nét trong các qui hoạch. Qui hoạch ngành xe hơi là một ví dụ khá rõ nét.

Đầu tiên chúng ta thu hút các nhà đầu tư quốc tế bằng thị trường nội địa. Đi kèm với điều này là mức bảo hộ rất cao với yêu cầu tăng tỉ lệ nội địa hóa và xuất khẩu. Nhưng như đã phân tích ở trên, càng bảo hộ, giá càng cao, nhu cầu trong nước càng giảm và cũng không thể xuất khẩu (vì giá quá cao). Và cũng không mong gì có thể tăng tỉ lệ nội địa hóa bằng các linh kiện nội vì không có nhu cầu tiêu dùng thì lấy gì để khuyến khích cung phát triển.

Qui hoạch mới nhất vừa qua cũng vẫn là bảo hộ với mức thuế cao, hạn chế tiêu dùng và phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ (linh kiện). Như đã phân tích, các mục tiêu này một lần nữa rất mâu thuẫn với nhau. Lẽ ra nên theo hướng qui hoạch mở, khuyến khích xuất khẩu, không hạn chế tiêu dùng trong nước (mà nên tập trung cải tạo hệ thống đường sá để người dân được hưởng phúc lợi xã hội một cách ngang giá), cho phép cạnh tranh tự do, lựa chọn hoạt động trọng điểm của ngành để khuyến khích đầu tư quốc tế, đi kèm đó là kế hoạch phát triển yếu tố hấp dẫn (như các nguồn cung kỹ sư, công nhân cơ khí, chế tạo máy cho các doanh nghiệp FDI).

Cũng trong vấn đề này, qui hoạch ngành đang được đồng hóa với qui hoạch sản xuất, vùng nguyên liệu, phụ kiện. Điều này là chưa đủ bởi nếu xét trên quan điểm cả một chuỗi giá trị thì còn thiếu một nhóm hoạt động hết sức chính yếu là dịch vụ và tiếp thị. Chúng ta có khuynh hướng cho rằng đây là công việc của từng doanh nghiệp.

Nhưng trên quan điểm toàn cầu, tiếp thị và dịch vụ là một hoạt động tạo giá trị rất quan trọng và được chuyên môn hóa rất cao. Ví dụ về ngành dệt may và da giày là điển hình. Trên bản đồ công nghiệp thế giới, các hoạt động sản xuất, cũng như nguyên phụ liệu đang chuyển về các LDC, trong đó có Việt Nam, còn các hoạt động như dịch vụ (thiết kế thời trang) hay tiếp thị (thương hiệu) thì vẫn đặt tại các quốc gia công nghiệp phát triển. Vậy rõ ràng các hoạt động này cũng cần nằm trong qui hoạch từng ngành. Chúng ta cũng có đề cập nhiều đến việc xây dựng các thương hiệu quốc tế, nhưng dưới góc độ của xúc tiến thương mại chứ chưa nằm trong qui hoạch phát triển các hoạt động của một chuỗi giá trị ngành mang tính toàn cầu.

Vì ví như, đứng trên quan điểm toàn cầu, nếu qui hoạch ngành của chúng ta đang tập trung để trở thành công xưởng sản xuất của thế giới – chứ không phải là các trung tâm tiếp thị hay thời trang thì việc xây dựng các thương hiệu Việt mang tính quốc tế cũng không phải là việc cần bàn vào lúc này. Và như vậy, xúc tiến thương mại, thương hiệu mà không xuất phát từ chiến lược ngành thì quả là vô nghĩa.

Một điểm nữa cần suy nghĩ là hiện nay TP.HCM đang bàn nhiều đến phát triển các sản phẩm chủ lực. Đây là công việc có ý nghĩa lớn, nhưng gắn thế nào với qui hoạch ngành (xét trên bình diện toàn cầu và cả nước) và các hoạt động tạo giá trị của ngành lại là câu hỏi đáng quan tâm vì hiện nay vòng đời sản phẩm rất ngắn.

Chính vì vậy người ta hay tập trung đầu tư phát triển năng lực cho các hoạt động (nghiên cứu vật liệu mới, qui trình sản xuất mới, công nghệ mới, năng lực thị trường) của ngành - những thứ có giá trị lâu bền và là gốc tạo ra các sản phẩm mới - chứ ít tập trung đầu tư cho những sản phẩm cụ thể. Cuối cùng làm rõ quan điểm qui hoạch ngành sẽ giải quyết rất căn bản các bài toán về đầu tư, kế hoạch phát triển nguồn lực và cả hướng phát triển cho các thương hiệu Việt trên con đường quốc tế hóa.

VŨ THẾ DŨNG
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên