30/03/2009 06:04 GMT+7

Những kẻ ăn chẹt ở Phố Wall

NGUYỄN QUÂN tổng hợp
NGUYỄN QUÂN tổng hợp

TT - Thế giới đang khủng hoảng. Đúng, nhưng chỉ với số đông. Vẫn còn những kẻ thu về bạc tỉ nhờ cách kinh doanh trên sự rối loạn của thị trường.

GuHoM8Qx.jpgPhóng to IaGA1EOc.jpg kwXMz0vi.jpg
Những tay đầu cơ tài chính thành công trong năm 2008 (từ trái qua): James Simons, John Paulson (phải, cạnh cựu chủ tịch FED Alan Greenspan) và John Arnold

Nếu tin theo số liệu của tạp chí Alpha công bố hôm 24-3 thì giới kinh doanh tài chính vẫn là những kẻ ăn nên làm ra thời khủng hoảng này. Trong năm 2008, 25 nhà điều hành quỹ hàng đầu bỏ túi trung bình 464 triệu USD mỗi người. So với hồi cực thịnh năm 2007 thì thu nhập của họ đã bị giảm đến 40%, tức trong năm đó họ ung dung bỏ túi trung bình 892 triệu USD mỗi người.

Ngư ông đắc lợi

Những kẻ thất bại

Trong bản danh sách của tạp chí Alpha cũng nêu ra những nhà đầu cơ thất bại trong năm 2008: Philip Falcone, Ken Griffin, Steven Cohen (SAC Capital Advisor), Timothy Barakett (Atticus Capital), Stephen Mandel (Lone Pine’s), John Griffin (Blue Ridge Capital), Andreas Halvorsen (Viking Global Investors). Chẳng hạn Ken Griffin đã thua lỗ cá nhân đến 2 tỉ USD sau khi quỹ Citadel của ông ta mất hơn 50% trị giá trong năm ngoái.

Một số bậc thầy về thị trường tài chính, chứng khoán như John Paulson đã nhìn thấy được bóng dáng cuộc khủng hoảng và thủ lợi từ nguy cơ đó thay vì gióng lên tiếng chuông báo động. Trong năm 2008 đầy biến động, quỹ đầu cơ Paulson Advantage Plus của ông ta đã kiếm lãi đến 37,6%! Nhờ đặt cược vào sự sụt giảm của các giá trị tài chính khi bán ra kịp các cổ phiếu xuống dốc, Paulson thu lãi cho riêng mình 2 tỉ USD trong năm.

Đây là một thành tích xem ra "kém cỏi" đối với người được mệnh danh là "ông hoàng của vay dưới chuẩn", vì năm trước đó ông ta đã được nguyệt san Trader Monthly bình bầu là "nhà buôn tài chính của năm" khi bỏ túi đến 3,7 tỉ USD nhờ đặt cược vào sự sụt giảm của thị trường cho vay dưới chuẩn.

Tính thành tích của năm 2008 thì Paulson chỉ xếp thứ hai vì vị tiến sĩ toán học James Simons đã bỏ túi đến 2,5 tỉ USD. Quỹ đầu tư Medallion do ông ta lãnh đạo đã thu lợi đến 80%, tức 7 tỉ USD nhờ kinh doanh theo một chương trình tính toán phức tạp do Simons nghĩ ra. Tuy vậy, hai quỹ khác cũng do vị tiến sĩ 70 tuổi này điều hành lại thất bại trong năm 2008.

Một bậc thầy về đầu tư và đầu cơ tài chính thế giới là tỉ phú gốc Hungary George Soros cũng đã kiếm lời được 8% cho quỹ Quantum Endowment của ông ta. Con số cũng không phải nhỏ trong bối cảnh suy giảm toàn cầu vì quỹ của vị tỉ phú ưa gây sốc này trị giá đến 21 tỉ USD. Ông ta đã thành công nhờ đầu tư vào thị trường Ấn Độ và Trung Quốc.

Nhưng tài năng thật sự thì phải kể đến John Arnold, một cựu nhân viên của Tập đoàn Enron đã sập tiệm. Những năm gắn bó trong thế giới tài chính đã giúp Arnold đem lại lợi nhuận đến 80% cho quỹ đầu cơ Centaurus Energy của mình nhờ đặt cược vào giá khí đốt đầy biến động trong thời gian qua. Khởi đầu lập quỹ vào năm 2002 với chỉ 8 triệu USD, Arnold đã giúp nâng tầm trị giá của quỹ lên 5 tỉ USD hiện nay. Anh ta thật sự là một tài năng vì chỉ mới... 34 tuổi.

Nằm trong tầm ngắm

Những nhà đầu cơ tài chính thành công hiện cũng đang nằm trong tầm ngắm của Quốc hội Mỹ. Ít nhất năm nhà điều hành quỹ có thu nhập cao nhất trong năm 2007 là Paulson, Soros, Simons, Ken Griffin (Citadel Investment Group) và Philip Falcone (Hebinger Capital) đã phải lần lượt ra điều trần trước một ủy ban điều tra của Quốc hội Mỹ về những nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xuất phát từ Mỹ.

Các nhà lập pháp Mỹ đương nhiên muốn biết liệu những nhà đầu cơ tài chính này có góp phần giật dây cho sự sụp đổ tài chính trong thời gian qua hay không. Về mặt lý lẽ có vẻ khó tìm được nguyên nhân gì để "bật lại" những ông trùm tài chính khôn ngoan này: đơn giản họ biết đầu tư đúng lúc, đúng chỗ và chỉ hưởng lương thưởng cao tùy vào năng suất sinh lãi của quỹ mà mình đại diện. Họ có thể không nhận đồng lương nào nếu làm ăn không thành công, khác hẳn với những vị lãnh đạo các tập đoàn như AIG đang bị dân chúng chửi bới hiện nay.

Nhưng về mặt kỹ thuật thì người ta có quyền điều tra. Các số liệu cũng đã cho thấy vài điều: trong số 9.000 quỹ đầu cơ hoạt động trong năm 2008 có đến 70% thua lỗ và 15-30% trong số này đã biến mất trên thị trường. Ít nhiều chúng đã góp phần làm thị trường thêm tệ hại. Chỉ số quỹ Edhec Risk, một chỉ số uy tín chuyên đo lường hiệu quả của các quỹ đầu cơ, cho biết trong năm 2008 các quỹ đầu cơ đạt hiệu suất âm (-19,73%), tức là rất tệ hại dù có vài quỹ kiếm bạc tỉ.

Cách kinh doanh của các quỹ đầu cơ trong thời gian qua đã khiến nhiều nhà quản lý chính quyền nhăn mặt: chúng đặt cược vào rủi ro kiểu "được ăn cả, ngã về không" khi đầu cơ "đánh xuống" đối với trị giá cổ phiếu (short selling). Thêm vào đó, trụ sở các quỹ này chủ yếu đặt tại các "thiên đường tài chính" (đến 66% theo số liệu của Tổ chức Minh bạch thế giới) khiến các chính phủ khó lòng kiểm soát.

Các quỹ đầu cơ tài chính vì thế đang nằm trong tầm ngắm của chính quyền Washington trong tình hình khủng hoảng hiện nay. Vấn đề này sẽ được đưa ra trong hội nghị thượng đỉnh G20 ngày 2-4 như một giải pháp góp phần ổn định tình hình. Khi được hỏi về một trong những thành công khả dĩ của hội nghị G20, Tổng thống Mỹ Barack Obama không ngần ngại đáp ngay: "Sẽ có một quyết định liên quan đến các quỹ đầu cơ và các cơ quan tính điểm (chuyên tính giá trị các công ty)". Bộ trưởng Tài chính Mỹ Tim Geithner cũng sẽ sớm trình lên quốc hội một dự luật giúp kiểm soát và giám sát tốt hơn đối với các quỹ đầu cơ.

-----------------------------------------

Kỳ tới:"Sóng ngầm" AIG

Tiền thưởng cho lãnh đạo tập đoàn bảo hiểm AIG đang khiến chính quyền Obama phải đau đầu. Đã xuất hiện làn sóng các nước dùng luật ngăn chặn tình trạng chi trả lương thưởng bạc triệu.

Một năm đã trôi qua kể từ khi xảy ra 10 ngày làm chấn động thế giới với việc các ngân hàng ở Phố Wall lần lượt sụp đổ. Báo chí Mỹ đang tập trung xoáy vào hiệu quả gói kích cầu của chính quyền Barack Obama, nhằm giúp kinh tế Mỹ vượt qua cơn đại hồng thủy và dường như dư luận đã tạm quên nguyên nhân của nó. Không khí được hâm nóng với việc nhà báo William D. Cohan tung ra quyển sách House of cards (tạm dịch: Ngôi nhà của những chiếc thẻ ngân hàng).

Quyển sách kể lại sự sụp đổ của một trong những ngân hàng hàng đầu, Bear Stearns, nhưng hiển hiện không khí 10 ngày chấn động thế giới khi các ngân hàng ở Phố Wall lần lượt sụp đổ và lần đầu tiết lộ những bí mật dơ bẩn của giới ngân hàng trên con phố nổi tiếng thế giới.

Cohan từng là một chuyên gia ngân hàng đầu tư cao cấp ở Phố Wall và chuyển sang làm nhà báo viết về tài chính. Trong House of cards, Cohan không chỉ thể hiện sự uyên bác của mình trong những ngõ ngách kỳ lạ của ngành công nghiệp tài chính, mà còn đưa ra những lời giải thích thẳng thắn đến mất lòng giới ngân hàng.

Cohan đã dẫn dắt độc giả lướt qua từng ngày, từng cuộc đối thoại về sự sụp đổ của ngành tài chính tương đương với thất bại của Ngân hàng Áo Credit Anstalt đã từng đánh dấu sự toàn cầu hóa của cuộc đại khủng hoảng những năm 1930. Vào thời điểm phá sản, Bear Stearns là một trong những ngân hàng lớn nhất và đầu tư mạnh nhất thế giới, là công ty môi giới chứng khoán hàng đầu. Nó có 15.000 nhân viên trên khắp thế giới và mới một năm trước thôi tạp chí Fortune còn thừa nhận Bear Stearns là công ty chứng khoán được khâm phục nhất nước Mỹ. Bear Stearns cũng là công ty đầu tư trong nhiều lĩnh vực nhất của chứng khoán tín chấp, một công cụ tài chính mới mà sau đó chính nó đã làm hệ thống tài chính thế giới rơi vào vòng xoáy khi thị trường nhà đất của Mỹ chậm lại và suy thoái.

Cuộc khủng hoảng ập đến Bear Stearns khi các nhà phân tích và những nhà đầu tư ở Phố Wall bắt đầu đặt câu hỏi về khả năng thanh toán của một lượng lớn chứng khoán tín chấp. Một trong những điều mà Cohan chỉ ra là rất nhiều nhà phân tích, kể cả người rất được kính trọng là Meredith Whitne, từng cảnh báo nhiều năm trước rằng việc buôn bán bằng cách trao đổi tín dụng và công cụ hỗ trợ tín chấp khác nhau đã tạo cơ sở cho việc đổi chác tín dụng dẫn đến hiệu ứng domino của việc mất khả năng thanh toán.

Cohan cũng vạch trần những cá nhân ích kỷ tham lam, làm ngơ trước những lời cảnh báo và sự phá sản của rất nhiều người khác vì lợi nhuận của bản thân họ. Giám đốc điều hành cuối cùng của Công ty chứng khoán Bear Stearns là Alan Schwartz biết rất rõ về sự phá sản của công ty vì ông ta chắc chắn đủ khả năng để nhận biết. Ông ta được trả hơn 35 triệu USD chỉ trong vòng một năm trước khi Bear Stearns bị buộc phải bán, thế nhưng khi sự việc đổ bể ông cho rằng mình có thể đã điều hành tốt nếu như không có sự rối loạn của tập thể. Tập thể đó là chính phủ, các cơ quan thuế địa ốc, Phố Wall, ngân hàng thương mại, các nhà điều hành, nhà đầu tư… và tất thảy mọi người.

Tác giả cay đắng nhận xét trong quyển sách: “Trong cơn khủng hoảng này chúng ta dường như đối mặt với những kẻ cướp chứ không phải là các nhà tài chính”… và “sự rối loạn hiện nay bắt đầu khi các ông chủ ngân hàng đầu tư bắt đầu đối xử với những ai cung cấp tài chính cho họ như những chiếc thẻ ATM".

NGUYỄN QUÂN tổng hợp
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên