19/12/2005 15:01 GMT+7

Những điều mới biết về khu Y - Trì Khiêm

Theo Lao Động
Theo Lao Động

Lần đầu tiên người ta có thể hình dung ra nơi "sống gửi - thác nhờ" của các cung tần mỹ nữ theo Vua Tự Đức tại quần thể lăng của vị vua này. Những thân phận lặng lẽ sống, lặng lẽ ra đi mà chưa hề để lại một dấu tích. Nơi "sống gửi" khi vua còn sống cũng chính là nơi "thác nhờ" khi vua băng hà.

zom0U0Qh.jpgPhóng to

Những vết tích của khu Y - Trì Khiêm viện đã được xuất lộ

Kết quả vừa thu được qua đợt điều tra, thám sát khảo cổ học khu vực Y - Trì Khiêm viện - thuộc quần thể di tích Lăng Tự Đức, của Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế phối hợp với Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đã gợi hướng cho việc phục dựng nó như một "bảo tàng ngoài trời".

Khu Y - Trì Khiêm viện là tên gọi tắt của hai kiến trúc được xây dựng cùng thời với lăng Tự Đức là Y Khiêm Viện và Trì Khiêm Viện, tạm gọi là "biệt cung". Đây là nơi ăn ở, sinh hoạt của cung tần, mỹ nữ mỗi khi theo Vua Tự Đức lên đây.

Hiện nay, khu vực này đã hoang phế. Nhiều người dân địa phương vào đây thu dọn gạch ngói chất thành đống để chiếm đất canh tác, trồng trọt. Hiện tại khu vực này được chia làm hai khu, ranh giới là một trường lang chạy từ Nhu Khiêm môn ra đến tận tường thành phía nam.

Khu thứ nhất ở phía tây không còn một dấu vết kiến trúc nào còn tồn tại trên mặt đất, ngoại trừ bức tường thành. Khu thứ hai ở phía đông vết tích còn lại nhiều hơn (dấu vết của một số bức tường).

Theo ông Nguyễn Tuấn Lâm - Trưởng đoàn khảo cổ học của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, thì thành công lớn nhất là ngoài việc nhận diện được hình hài của một "biệt cung", nhóm thám sát khảo cổ học còn phát hiện ra khu này không chỉ có 2 kiến trúc gồm Y Khiêm Viện và Trì Khiêm Viện, như tài liệu của Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế cung cấp, mà có đến 4 kiến trúc, tức thêm Tùng Khiêm Viện và Dụng Khiêm Viện.

Theo bài "Khiêm cung ký" do chính tay Vua Tự Đức ngự viết dựng trong bi đình, thì các kiến trúc nói trên được bố trí như sau: "Phía trong và ngoài cửa cung, dựng 4 ngôi nhà gọi là Công Khiêm, Cung Khiêm, Lễ Khiêm, Pháp Khiêm, là nơi quan lại và thợ thuyền túc trực.

Đằng sau hai điện, bên phải dựng bốn viện, gọi là Tùng Khiêm, Dụng Khiêm, Y Khiêm, Trì Khiêm, là nơi các phi tần theo hầu ở tạm". Do "Khiêm cung ký" không đề cập rõ ràng vị trí, tên gọi của từng kiến trúc cho nên đến nay vẫn chưa xác định được tên gọi chính xác của từng công trình.

Kết quả điều tra, thám sát khảo cổ học cũng cho thấy các kiến trúc ở đây đã trải qua 2 giai đoạn tồn tại. Giai đoạn thứ nhất từ năm 1866 đến 1883 - thời gian Vua Tự Đức còn sống và xây lăng. Giai đoạn này cả 4 khu kiến trúc đều là nơi tạm trú của các phi tần theo hầu mỗi khi vua lên thăm lăng, nên các kiến trúc đều được bố trí thoáng đãng, mở thông với các khu vực bên ngoài.

Giai đoạn thứ hai được tính từ năm 1883 trở về sau. Lúc này Vua Tự Đức đã băng hà và nơi đây trở thành chỗ ăn, ở thường xuyên của các phi tần, cung nữ. Để phù hợp với chức năng mới, các kiến trúc được cải tạo, sửa chữa và xây thêm nhiều công trình phụ, trở thành một khu vực khép kín như một "biệt cung" để giam giữ quãng đời còn lại của các cung tần mỹ nữ. Đến đây, họ sống tách biệt với thế giới bên ngoài cho đến chết.

Vẫn theo ông Nguyễn Tuấn Lâm, kiến trúc Y - Trì Khiêm viện ít được sử sách đề cập đến, nên những thông tin thu được qua kết quả điều tra, thám sát khảo cổ học rất có ý nghĩa trong việc tìm cứ liệu khoa học để phục vụ cho dự án trùng tu, tôn tạo sau này. Đây là những cứ liệu khoa học rất đáng tin cậy nên cần phải được bảo quản đúng theo các nguyên tắc khoa học.

Ông đề xuất: "Trong khi chưa có điều kiện để phục dựng lại, thì trước mắt (Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế) nên cho lấp cát để bảo vệ di tích không bị hư hại do thời tiết. Về lâu dài, nếu không có điều kiện để phục dựng thì nên có kế hoạch xây dựng dự án trưng bày như một bảo tàng ngoài trời để tiếp tục phát huy những giá trị vốn có của di tích.

Đồng thời với việc xuất lộ các vết tích kiến trúc, các nhà thám sát đã đưa lên khỏi mặt đất một số lượng lớn hiện vật khảo cổ, chủ yếu là đồ gốm sứ, có xuất xứ từ Việt Nam và Trung Quốc.

Đồ Việt Nam có hai loại chính gồm đất nung (vò, hũ, đĩa đèn, nồi, niêu ấm) và đồ sứ (bát, đĩa, âu...có nguồn gốc từ Bát Tràng, Móng Cái, Thanh Hà, niên đại từ thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 20). Đồ sứ Việt Nam có xương thô, bở, nét vẽ thô.

Đồ sứ Trung Quốc chủ yếu là loại sứ cao cấp, có niên đại từ thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20. Các loại hình phổ biến là bát, đĩa, ấm, chén...có men trắng bong, xương chắc, mịn, vẽ lam tươi màu, nét tinh tế, mềm mại.

Theo Lao Động
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên