02/02/2008 18:47 GMT+7

Ngũ long lấp lánh

NGUYỄN THỊ MINH THÁI
NGUYỄN THỊ MINH THÁI

TTXuân - Nổi bật một chùm “ngũ long”: Đoàn Minh Phượng, Phan Thị Vàng Anh, Bạch Đàn, Kim Ngọc, Thanh Thúy. Năm khuôn mặt sáng, năm ánh nhìn đau đáu, năm ngôn ngữ đối thoại thiết tha với đời.

Dtlns09r.jpgPhóng to
Thanh Thúy

Ngũ long, theo phương Đông, mang bản chất ngũ hành. Gồm hai cặp: Thủy - Hỏa, Mộc - Kim và hành Thổ trung tâm. Đoàn Minh Phượng - Phan Thị Vàng Anh là cặp Thủy - Hỏa văn chương. Cùng năm 2007, Vàng Anh đoạt giải thơ Hội Nhà văn Hà Nội, tập Gửi VB. Đoàn Minh Phượng đoạt giải văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam, tiểu thuyết Và khi tro bụi. Liền đó, Phượng ra mắt tiểu thuyết Mưa ở kiếp sau. Năm 2005, 2006, bộ phim Hạt mưa rơi bao lâu của Đoàn Minh Phượng và em trai Đoàn Thành Nghĩa đoạt hơn một giải thưởng ở nước ngoài.

F1JjTxIt.jpgPhóng toĐoàn Minh Phượng

Mất thời gian và không gian, tôi mất cả trọng lực, tôi như đang rơi trong khoảng không. Ba mươi giây vô tận sau tôi mới nhớ lại mình đang ở Rajasthan. Tôi nhớ lại tôi là khách lạ ở đây. Tôi nhớ lại tôi là khách lạ ở bất cứ nơi đâu. Con người không có quê hương giống như một hạt cỏ gió đưa đến bám rễ trên vách đá, tôi biết thân phận của mình rất dễ vỡ.

Đoàn Minh Phượng - Trích Và khi tro bụi

“Chỉ xét riêng về tốc độ làm việc đã thấy cây bút này đáng trọng… Bây giờ biết gọi Đoàn Minh Phượng là nhà gì?” - đấy là lời khen của nhà phê bình Vương Trí Nhàn. Mà chính Phượng cũng giằng co giữa văn chương và điện ảnh, phát hiện mỗi ngôn ngữ có riêng lực hút, nhưng điểm chung vẫn là cách kể những câu chuyện - điều Phượng quan tâm. Cần ngôn ngữ nào, Phượng kể “trúng chóc” bằng ngôn ngữ ấy.

Song, Phượng gây hiệu ứng mạnh về thi pháp tiểu thuyết. Hạt mưa rơi bao lâu cũng mạnh ở ý tưởng văn chương, chứ chưa hẳn ngôn ngữ điện ảnh. Vì thế, Phượng thật tinh tế trong cái viết, tìm được cách kể Và khi tro bụi thì thầm, gượng nhẹ bằng một thứ tiếng Việt óng ả, mượt mịn, trong vắt, du dương. Đọc Phượng, phải đọc chậm, nhâm nhi kỹ tiếng Việt như thưởng thức trà quí. Sau khi đọc, có thể được an ninh tâm hồn, thứ không dễ tìm trong thế giới đang gấp gáp sống nhanh, yêu nhanh và cả chết nhanh này…

Cách viết tinh tế của Phượng về cuộc đi tìm tro bụi (cái chết) của nhân vật chính: tôi-người-thiếu-phụ, đã hàm nghĩa cuộc trở về bản nguyên. Trên hành trình tìm cái chết, va vào cái sống, nhân vật chính bừng ngộ. Tìm lại tuổi thơ đã mất cho cậu bé, tôi-người-thiếu-phụ cùng lúc tìm thấy cội nguồn Việt (tưởng đâu bị dập xóa) trong hình ảnh chính mình: bé gái bị chiến tranh cướp cả tuổi thơ lẫn quê hương.

Vậy là, cách kể thấm thía của Phượng đã tự nhiên đạt đến sự “lưỡng lự hiền minh” của tiểu thuyết: vừa mở ra khoảng không rộng rãi cho nhân vật suy tưởng, vừa “láy âm” xuyên suốt (với thơ đề từ của Very Vaughan: Và khi tro bụi rơi về / Trong thinh lặng đó cận kề quê hương). Cận kề quê Việt bằng va chạm thân mật nội tâm. Cận kề tiếng Việt bằng trực giác của chủ thể tiểu thuyết đẫm nữ tính Việt, phảng phất suy tư triết học Đức (nơi chị định cư đã mấy mươi năm), đấy là quyến rũ rất riêng của Và khi tro bụi.

ezEkUScG.jpgPhóng to
Phan Thị Vàng Anh
Cùng cặp đôi Thủy - Hỏa, nếu văn chương của Phượng trầm tư, rỉ rả (hành Thủy) thì Phan Thị Vàng Anh lại cháy đỏ (hành Hỏa) trong thơ trữ tình, khiến Gửi VB là bất ngờ của thi đàn 2007. Màu đỏ ấy biểu đạt phẩm hạnh khá hiếm trong thơ Việt đương đại: trí tuệ của cảm xúc, thứ cảm xúc đã được soi chiếu, thanh lọc bằng cái nghĩ thơ.

Đây không chỉ là thơ, mà tính cách người, mà Vàng Anh thừa hưởng, bằng cả bản năng và ý thức từ người cha cũng là thi sĩ: Chế Lan Viên.

Theo Vàng Anh, từ truyện ngắn (Khi người ta trẻ) đến tản văn (Nhân trường hợp chị Thỏ Bông) và đến thơ (Gửi VB), thấy rõ hành trình của cái nghĩ, bằng trái tim run rẩy, đa cảm và tự trọng, có tinh thần công dân rất cao. Ở thơ, Vàng Anh có “đất” biểu đạt rõ tính cách thơ riêng, qua tư thế ngạo ngược: Giờ nằm im và ngửa cổ / Cho đầu thõng xuống cạnh giường / Đề phòng nước mắt có chảy / Chầm chậm / ngược dòng / mà tuôn.

Chính tư thế này chối từ cách thơ cũ, để “cả gan” lạ hóa tình yêu, khi định nghĩa: Chúng ta là cá và nước / Cá bơi và nước trôi / Chúng ta là bánh mì và chả lụa / Bán riêng và ăn chung/ Chúng ta - hai kẻ ghét Hà Nội… Chúng ta - hai vốc cát Quảng Trị / Hai ly trà đá Sài Gòn / Hai cái đầu tưởng lạnh như băng / Vào một ngày rất bình thường / Bị làn gió nhẹ góc hồ Gươm / thổi cho / xiêu vẹo.

Vàng Anh thích “bẫy” người đọc. Cái kết thơ “lạnh như băng” này, đã òa vỡ một tình yêu hiện đại: yêu Hà Nội, từ tình cảm ngược: ghét Hà Nội. Vỡ lẽ tình cảm lọc qua lý tính như thế, nhập vào cảm giác cô đơn, là cảm xúc không giấu giếm trong thơ Vàng Anh. Nó “gài nổ” (chữ Hoàng Hưng) cái kết thơ, làm bừng sáng vẻ suy tư riêng, chỉ có ở nữ sĩ này. Cũng vì thế, cảm xúc - trí tuệ cứ li ti xanh trong thơ văn xuôi Vàng Anh: ...Quờ tay tìm viên thuốc / Ba năm rồi không sợ đụng nhầm tay ai...

FIlwMYvt.jpgPhóng to
Bạch Đàn

Hành Thổ thuộc về họa sĩ Bạch Đàn, tuổi Canh Tuất, 1970. Mặt trái nho, tóc tém, ít nói, cười lành hiền, chỉ vẽ tranh rừng đen - trắng với mực tàu, giấy xuyến chỉ. Hồi còn là sinh viên ĐH Mỹ thuật HN, Đàn không nghĩ đó là chất liệu của mình.

Ra trường, dự trại sáng tác quốc tế, túi tiền nhẹ nên chỉ thấy “lọt mắt” hộp mực tàu giá 6 USD, cả giấy xuyến chỉ hợp mực tàu. Giấy mực tự dưng xui Đàn tìm mới. Hai tháng mê man hứng khởi vẽ. Triển lãm cá nhân kết thúc trại, Đàn chỉ trưng bày tranh đen trắng.

“Tôi không sợ đơn điệu khi vẽ rừng đen - trắng cả chục năm. Ai cản tôi vẽ tâm trạng biến đổi không ngưng trong cả trăm cảnh rừng? Chỉ vài chấm mực tung tẩy, vài nét đen chấm phá, đã phô bày cả không gian rừng. Nhưng cũng thách thức. Làm sao cảnh rừng chứa mọi cảm xúc của tôi, cả cái bóng ở phía sau rừng?”… Thư thả ngắm tranh Đàn, sẽ thấy… bóng rừng yên tĩnh, không vướng bụi trần.

Gần đây, Đàn bỗng vẽ sen. Tranh Đàn chập chùng lá sen đen trắng. Không bóng hoa. Chỉ lá. Đàn vẽ lá sen như trò chuyện thân tình. Biết hoa đã đành đẹp, Đàn chỉ để tâm đến lá, làm nền cho hoa. Đầm sen như đời người, cành sen như dáng người: dáng thẳng, dáng nghiêng, ưu phiền, rũ rụng, vô thường như đời sống. Đàn nghiệm sinh: lá sen càng tàn úa càng đẹp não nùng…

Rừng và sen, đen và trắng giản dị trong tranh Đàn, không chỉ tìm được tri âm Việt. Đàn từng triển lãm cá nhân và nhóm, hàng chục lần ở Mỹ. Riêng năm 2007, Đàn triển lãm cá nhân “Mùa” ở Dennis Bibro Fine Art Gallery, New York, và triển lãm chín nữ họa sĩ đương đại Việt Nam… Níu mắt và níu tâm người thưởng tranh, là hắt sáng huyền ảo đen - trắng, từ nét vẽ khoáng đạt thâm trầm của nữ họa sĩ Bạch Đàn đậm đặc chất phương Đông!

Bộ đôi Mộc - Kim gồm hai kỳ nữ trình diễn, cái nghề chỉ phơi mở bằng sân khấu. Bận tâm chung của Kim Ngọc và Thanh Thúy đều nhằm vào cái nghĩ, tìm cái diễn, để hiến cho cái xem của người thưởng lãm.

cOu6sIRk.jpgPhóng to
Kim Ngọc

Kim Ngọc - nhạc sĩ tuổi Giáp Dần, 1974. Dáng ngang tàng, đầu trọc cá tính, mặt xinh, đôi mắt to đen, long lanh dao cau. Cả mặt, chỉ thấy mắt. Thẳng băng tuyên ngôn: “Tôi làm nhạc của tôi, cho tôi. Thích được đánh giá bằng tác phẩm. Tin đó là công bằng. Không muốn ai đại diện ngoài chính bản thân”.

Hai mươi tuổi, Ngọc đoạt giải nhì cuộc thi âm nhạc đương đại ở Paris. Năm sau, 1995, trở thành hội viên Hội Nữ nhạc sĩ quốc tế, vẫn xanh rờn tuyên bố: “Với tôi, im lặng (silent) càng là đối thoại”, khi được đào tạo về sáng tác ngẫu hứng và nhạc điện tử tại Đức, ĐH Âm nhạc Cologne (2002-2004). Lưu diễn ở châu Âu, Mỹ; rất được ưa thích ở Đức; tác phẩm viết cho dàn nhạc của Ngọc được biết nhiều ở kênh âm nhạc Đài WDR, RFI, Radio France... Ngọc chỉ “hơi lạ” với khán giả Việt.

Năm 2007, được Viện Goethe Hà Nội mời xem thử nghiệm mới nhất của Ngọc: Ai đem con nhện giăng mùng, nhiều người bị “sốc”. Một hình thức lạ như thế, năm 2002, Ngọc mới chỉ trình diễn tại nhà sàn Đức qua tác phẩm: Giấc mơ đứa bé lang thang. Lúc ấy có người gọi là “âm nhạc trình diễn” (music-performance). Tạp chí Visiting Art của Anh gọi là “sân khấu ẩn dụ” (figurative-theatre), bình luận: Từ bỏ văn bản viết để chọn cách giao lưu mới với công chúng, tác phẩm của Kim Ngọc hứa hẹn một tầm nhìn có tính khai phá cho sân khấu đương đại Việt Nam.

Mặc ai đặt tên, Ngọc gọi Giăng mùng giản dị: music-theatre.

Ngọc vỡ lẽ bản thân trong âm nhạc, và khám phá âm nhạc từ bản thân. Đi tìm bản thân, lặng lẽ và chầm chậm. Tìm thấy mình và khác mình. Phải đi lâu, phải vỡ ra, rồi “một mình khâu lấy lặng im” (thơ Hoàng Việt Hằng) mà thành chính mình. Tác phẩm mới Giăng mùng chứa đầy lặng im - đa thanh - đa nghĩa, đã được chính Ngọc gọi đích đáng: music-theatre.

Ngày thứ ba ở Hội An

Trăng sángNgư dân ở nhà chơi với vợĐợi đêm đen còn ra với phong ba.

Trăng sángNước ánh bạc, lưới không sao giấu mắtCá băng băng tung tẩy từng đànNgộp thở

Phố cổ oi, đèn lồng vàng và đỏNgười đi từng đàn, đổ về phía bờ sôngSực nhớ ra, thắt cả lòng: lúc đi, đóng cửa, đã không bật đèn.

Phan Thị Vàng Anh

Ngọc tự nhận: người ảnh hưởng lớn đến tư duy Ngọc không phải nhạc sĩ Trần Ngọc Xương, cha ruột, mà là GS Johanes Frist, người Đức, đã dùng phương pháp “bỏ mặc” “con bé Á Đông bướng bỉnh” tự bơi trong biển âm nhạc phương Tây. Ông xuất hiện đúng nghĩa người chỉ dẫn phương pháp.

Đến lượt ông kinh ngạc, thấy càng học Tây, tính Việt cổ truyền trong âm nhạc của Ngọc càng căn cơ và phát sáng. Ai đem con nhện giăng mùng là Đông - Tây đan dệt hài hòa. Nhân vật nữ (Kim Ngọc) là hình bóng Việt ẩn hiện huyền bí, dệt váy trên khung cửi thời gian, trong điệu ca cổ “giăng mùng” do chính Kim Ngọc lập ý tưởng, đạo diễn, tự “hát” không lời và trình diễn, thiết kế sân khấu và ánh sáng, trên nền video-art của nghệ sĩ Canada Brian Ring.

Cùng là nghệ sĩ trình diễn, Thanh Thúy - kịch nói, 1982, tuổi Nhâm Tuất - nổi bật gần đây với tam giác vai: Bé Bì, vũ nữ Hằng Nga và vai nữ công an Vân.

Cuối năm ngoái, rét cắt ruột, Thúy ra Hà Nội ở hai tháng, chỉ để quay vai vũ nữ hai ngày, phim Vũ điệu tử thần. Đạo diễn Bùi Tuấn Dũng kêu trời khi Thanh Thúy nhập vai đầy lửa, dày đặc chi tiết: “Thanh Thúy phiêu quá, phải tiết chế!”.

Thúy nhận mình “phiêu”, sống nồng nàn, yêu chí thiết vai diễn. Thúy thâm nhập vũ trường Sài Gòn, quan sát, nhảy múa, tự bỏ tiền rước thầy dạy, chuẩn bị cách độc đáo cho vai vũ nữ mà Thúy biết chắc là “ngược” sở trường. “Ngược thì ngược, em vẫn thử nghiệm” - Thúy hăm hở. Từ những chi tiết đắt giá khắc họa Bé Bì ngơ ngơ, luôn chậm một nhịp - vai kịch sống động nhất trong Cánh đồng gió, Thúy băng qua vai gái nhảy xuất sắc trong Vũ điệu tử thần. Thúy thì thào: “Bây giờ bảo diễn lại, em chịu!”.

Vai nữ công an Vân là vai phụ. Thúy nhớ nằm lòng lời NSND Đào Mộng Long: không có vai phụ, chỉ có người diễn viên bé mọn. Với nhiều chi tiết duyên dáng, hài hước, vai phụ của Thúy lấy nhiều nụ cười “xả xú páp” ngon lành của công chúng TP.HCM.

Có lẽ, chỉ Đức Thịnh - đạo diễn mới hiểu rõ tính cách độc lập, tiềm ẩn nội lực của Thanh Thúy - diễn viên. Thúy đã chinh phục chồng tương lai bằng ngoan cường trong thử nghiệm nghệ thuật và ngoan hiền trong đời thường. “Tôi mê cô ấy. Nụ cười đẹp. Hiền khô. Yêu nghề. Chỉ không thích: hay trễ hẹn” - Thịnh thú nhận. Trễ hẹn, nhưng mê đắm vai diễn, lao động nghệ thuật cần mẫn, đầy lửa sống, người như thế, còn mong chi mà không rước nàng về dinh, hỡi Đức Thịnh?

Cả “ngũ long”, như đã minh chứng bằng tác phẩm, đều khởi hành từ cách nghĩ và sự đổi mới cách nghĩ (“lạ hóa”). Kinh nghiệm nghệ thuật của họ lấp lánh trong tâm tưởng người thưởng ngoạn. “Rất lạ và quyến rũ vô bờ” như cách thi sĩ Dương Tường đã thán phục nhạc sĩ Kim Ngọc sau lần nghe, ngắm Ai đem con nhện giăng mùng...

NGUYỄN THỊ MINH THÁI
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên