Phóng to |
Ban nhạc Radiohead |
Nhưng mãi đến tháng 4-1991, On A Friday mới ghi âm được một cuộn băng giới thiệu giọng hát (demo) riêng cho mình. Và ban nhạc đã chính thức đổi tên thành Radiohead sau khi thu ca khúc Radio head của hãngTalking Head.
Lạ lùng thay, album đầu tay – Pablo Honey (1993) với đĩa đơn Creep – của Radiohead dù mờ nhạt tại quê nhà nhưng lại được giới phê bình khen nức nở và thắng đậm ở thị trường Mỹ. Creep chiếm ngay vị trí thứ nhì trong danh sách những bản rock hiện đại của bảng xếp hạng Billboard. Từ đó Radiohead bắt đầu “lấp lánh”.
The Bends (1995), album kế tiếp, được đánh giá hay hơn album đầu nhờ sự chín chắn hơn trong các sáng tác của thủ lĩnh Thom và sự “chắc tay” hơn của các thành viên khác. Riêng OK computer (1997) - album thứ ba - lại nặng về kỹ thuật máy móc, âm thanh điện tử và hiệu ứng phòng thu.
Tuy thế, với album này, Radiohead đã được khen ngợi là “những nghệ sĩ biết nhìn xa trông rộng và là ban nhạc rock nhiều sáng tạo nhất”. OK computer đã dẫn đầu bảng xếp hạng album hay nhất của bảng xếp hạng Anh suốt 71 tuần liên tiếp và chiếm luôn danh hiệu một trong những album hay nhất của thập niên 90 với vô số giải thưởng.
Dù không có một chiến dịch quảng cáo nào cũng như không có đĩa đơn nào được tung ra để giới thiệu, nhưng album thứ tư, Kid A, của Radiohead vẫn chiếm vị trí quán quân trong bảng xếp hạng những album hay nhất ngay khi được phát hành (11-2000).
Tám tháng sau, Amnesiac ra đời và được đánh giá là album song sinh với Kid A bởi cách hòa âm ấn tượng cùng những ca khúc mang chủ đề tương tự Kid A.
Đa dạng hơn trong giai điệu, mang tính rock truyền thống hơn là những gì mà Heil to the thief (album mới vừa được tung ra tháng 6-2003 của Radiohead) mang đến cho các fan cuồng nhiệt của mình.
Lao động nghệ thuật chăm chỉ, đổi mới sáng tạo không ngừng - đó chính là lý do vì sao MTV châu Á chọn Radiohead - những chàng trai rock không bao giờ “cũ” - làm nghệ sĩ tháng 9-2003.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận