04/06/2008 10:00 GMT+7

Ký ức không quên - kỳ 5

JONATHAN SCHELL
JONATHAN SCHELL

TTO - Đại úy Reese cho máy bay đi vào đường băng và chiếc máy bay nhỏ bé của chúng tôi cất cánh khỏi mặt sân rải nhựa sau khi chỉ chạy hơn 90 mét trên đường băng dài hơn ba cây số, vươn dài quá tầm mắt của chúng tôi như một đường cao tốc trên sa mạc.

ixHVcKwZ.jpgPhóng to
TTO - Đại úy Reese cho máy bay đi vào đường băng và chiếc máy bay nhỏ bé của chúng tôi cất cánh khỏi mặt sân rải nhựa sau khi chỉ chạy hơn 90 mét trên đường băng dài hơn ba cây số, vươn dài quá tầm mắt của chúng tôi như một đường cao tốc trên sa mạc.

Ngay khi máy bay rời khỏi mặt đất, viên đại úy quay máy bay về hướng Tây Nam rồi bay vọt lên đến hơn bốn trăm năm mươi mét. Theo quy định, các phi công FAC không được phép bay dưới độ cao này, nhưng họ hầu hết thường phá bỏ quy định và đôi khi họ còn bay thấp xuống tận ba mươi mét. (“Ngay khi được nghe quy định này, tôi biết đó là một trong những quy định làm ra để chẳng có ai chấp hành”, một phi công FAC nói với tôi như thế. “Không ai nhìn thấy được người dưới đất khi bay cao ba trăm mét. Không thể thấy gì hết trừ khi anh bay thấp hơn”). Đại úy Reese cho chiếc máy bay O-1 bay trên các đồng lúa bỏ hoang màu nâu và các làng bị thiêu rụi chỉ còn tro màu đen trong vùng Tây của huyện Sơn Tịnh. Bầu trời phủ đầy mây xám, nặng nề, u ám.

Lấy bộ tai nghe và một micro gắn cho người ngồi ghế sau sử dụng, tôi choàng lên đầu và hỏi đại úy Reese xem phi công thường phải tìm loại mục tiêu nào phổ biến nhất và mục tiêu của phi vụ này là gì.

Nói qua chiếc micro nhỏ bằng hạt đậu nằm ở cuối vòng sắt ôm lấy chiếc mũ bảo hiểm sát đến tận miệng, đại úy Reese trả lời:

- Ồ, thông thường chúng tôi đánh một căn cứ Việt Cộng, đốt trụi một làng hoặc đánh vào một kho hậu cần. Hôm nay, chúng tôi sẽ đánh vào một địa điểm được nghi là nơi tập trung quân địch tại tọa độ 324 733. (Tất cả các chữ số tọa độ trong thiên phóng sự này đều đã thay đổi.)

Tôi hỏi việc ném bom mục tiêu này đã được quyết định ra sao.

- Tôi không biết. Có một nhân viên chỉ điểm nào đó báo tin này hoặc dựa theo một nguồn nào đó, tôi đoán thế. - Anh ta nói.

Chúng tôi vượt qua một rặng đồi nhỏ rồi bay ra thung lũng sông Trà Khúc. Các ruộng lúa có màu xanh nhạt, các khu rừng trên các sườn núi có màu xanh đậm dưới bầu trời đang tối dần vì sắp mưa. Về phía Tây mấy dặm, thung lũng biến dần vào trong núi. Từ những đám mây đen, những màn mưa bắt đầu rơi xuống mặt đất, có nhiều màn mưa khác cũng đang trút xuống biển Đông. Không khí dưới các đám mây trong suốt một cách lạ thường, chúng tôi có thể thấy rõ những đỉnh núi màu xanh lơ rất xa về phía Tây sau những dãy núi nhỏ ở gần hơn. Đường phân cách biển và trời bị xóa nhòa trong một màu xám đồng nhất và một hòn đảo lớn màu xanh hiện ra rất rõ cách bờ hai mươi cây số hoặc hơn như đang trôi trên bầu trời. Những đỉnh núi thấp ở phía Bắc và Nam của thung lũng đã bị trọc hết cây và đen kịt. Đại úy Reese giải thích rằng máy bay Mỹ thường ném bom và nã súng dữ dội vào các đỉnh núi và thường gây cháy rừng để tiêu diệt bất cứ ai còn ở đó trước khi cho quân đổ bộ xuống. Trong thung lũng, các hố bom đủ mọi kích cỡ chen chúc nhau trên các ruộng lúa. Từ dưới thung lũng, năm sáu cột khói thẳng đứng đang bay lên. Quân Mỹ đang đốt những túp nhà lá.

- Đây là một căn cứ vững chắc của Việt Cộng.

Đại úy Reese nói với tôi. Anh ta bay vòng xuống thấp hơn để nhìn cho rõ. Trong khu vực này của thung lũng, nhiều cụm nhà dựng rải rác cách xa nhau dưới rặng cây dọc một con suối nhỏ. Binh lính lội qua ruộng lúa, đi vào một cái sân có ba ngôi nhà bao quanh. Một phút sau, binh lính lại xuất hiện trên đám ruộng phía bên kia sân, một ngọn lửa bắt đầu lan rộng từ mái một ngôi nhà sang các nhà bên và chẳng mấy chốc, cả ba ngôi nhà đều đổ sụp trong đống lửa bốc cháy dữ dội. Đại úy Reese đưa máy bay lên độ cao 450 mét như cũ và lại hướng về phía Tây Nam, đến vùng mục tiêu của anh ta. Từ trên cao nhìn xuống mặt đất, chúng tôi thấy rải rác đó đây các ô vuông xám, dấu vết còn lại của các ngôi nhà mới bị đốt. Đại úy Reese, dựa theo các tọa độ đã xác định, đã tìm thấy ô vuông rộng mỗi chiều 100 mét bao gồm một rừng cây và một khe suối nằm ở lưng chừng một ngọn núi cao khoảng 900 mét. Phía bên kia của khe núi là các dãy nương trồng cây lương thực trải dài trên dốc núi.

- Họ muốn chúng ta đánh bom vào khe núi. - Đại úy Reese nói. - Đó là mục tiêu.

Đến 8 giờ 45 phút, chỉ huy trưởng tốp ba máy bay F-4 điện đàm cho biết họ đã bay trên vùng mục tiêu.

- Hãy cho tôi biết anh có những loại bom gì và cả các thứ khác nữa, đại loại như vậy. - Viên đại úy hỏi.

- Chúng tôi có sáu quả na-pan, sáu quả bom 750 pound và sáu quả 250 pound(*). Có thể sử dụng được không? - Viên chỉ huy trưởng đáp và hỏi lại.

- Chúng ta có thể dùng tất cả. Tôi sẽ đánh dấu mục tiêu cho anh. - Viên đại úy trả lời.

Trong suốt cuộc oanh tạc, các phi công trao đổi với nhau một cách thoải mái, vui vẻ và với một giọng ngang bè bè, khi đi qua các bộ tai nghe cài trên đầu thì chuyển thành giọng mũi nghe nghèn nghẹt.

Đại úy Reese phát hiện ba chiếc F-4 qua chiếc vòm trong suốt của khoang lái khi chúng bay cắt ngang qua dưới các đám mây ở trên đầu chúng tôi. Lái chiếc máy bay trên mục tiêu, Reese nhào thẳng xuống và kéo cần để phóng ra một quả rốc két phốt-pho lắp trong chiếc ống nằm dưới cánh. Quả rốc két không phát cháy. “Đồ khỉ gió! Hôm nay nó tịt ngòi”, anh ta nói. Viên phi công lại bay vòng lại, lại nhào thẳng xuống lần nữa và lại kéo cần để phóng tiếp một quả rốc két lần thứ hai, quả này cũng không nổ. Trong lần lượn vòng tiếp sau đó, anh ta ném một quả lựu đạn khói qua cửa sổ và nó cũng không nổ. Reese lại ném thêm ba quả lựu đạn nữa trong các vòng bay sau và tất cả lại cũng tịt ngòi. Quả thứ năm phát ra một tia khói kéo dài từ máy bay xuống đỉnh núi rồi ngay sau đó, một vòm khói trắng xuất hiện trên các lùm cây.

- Tôi muốn đánh ngay vào thung lũng này. Anh có thể bay vào từ hướng Đông và bay ra hướng Tây.

Đại úy Reese nói với chỉ huy trưởng phi vụ, rồi bắt đầu bay một vòng tròn cua gấp cách mục tiêu chỉ vài trăm mét. Khi chiếc O-1 kết thúc bay vòng tròn thứ hai, viên đại úy nhìn theo chiếc F-4 đi đầu đang bổ nhào xuống khe núi. Những trái bom lao chéo xuống đất và rơi vào khu rừng. Một làn sóng chấn động mạnh từ nơi chạm nổ lan nhanh ra xung quanh và một đám khói nâu vọt lên hàng trăm mét trên khu rừng. Chiếc F-4 kéo cần bay một vòng cua gấp để lộ cho chúng tôi thấy bụng nó đầy những bom gắn dưới hai chiếc cánh ngắn củn.

- Trúng rồi! - Viên đại úy reo lên. - Đúng là khu đó! Lần sau cố gắng đánh dịch xuống năm mươi mét về phía Nam, ở dưới thung lũng.

Chiếc máy bay tiếp theo nhào xuống thả bom từ một góc tương tự.

- Tốt lắm! - Viên đại úy nói.

Chiếc máy bay thứ ba liên tiếp phóng xuống hai ống màu trắng bạc đựng na-pan, và na-pan cũng rơi vào rừng cây. Một cột khói đen với một cột lửa dày đặc màu da cam nóng bỏng phun trùm lên rừng cây rồi bắn tung tóe một thứ chất lỏng sền sệt gây cháy lan ra khắp rừng. Hai quả tiếp cũng là bom na-pan và chúng rơi vào sườn đồi. Sau lần thả bom na-pan thứ ba, viên chỉ huy trưởng hỏi:

- Anh có muốn thả nhiều xuống khe núi không?

- Có chứ, cứ ném thẳng xuống khe núi!

Ba lần bay vòng tiếp theo đã trút bom xuống khe núi, khói nâu bay lên mù mịt. Đến đây, cuộc oanh kích kết thúc và viên đại úy bay trở lại trên vùng mục tiêu. Nhiều hố rộng màu nâu hiện ra với cây cối gãy nát nằm la liệt khắp rừng. Những giọt na-pan vẫn còn đốt cháy từng vạt trên mặt đất và các cành cây. Ở đáy khe núi, hai quả bom rơi thẳng xuống một con suối. Phía trên những lùm cây, một đàn chim bay sát cánh vào nhau đang hoảng hốt lượn vòng quanh. Một quả bom đã rơi xuống phần nương rẫy bên khe núi.

- Tôi chẳng thấy gì cả. - Viên đại úy nói với tôi, giọng mệt mỏi. Sau đó, anh ta báo cáo với viên chỉ huy phi đội:

- 100% bom đã rơi trúng vùng mục tiêu, 50% diện tích mục tiêu bị trúng bom. Xin cảm ơn ông. Tôi chưa quan sát trước khu vực này và hình như kết quả chưa được tốt lắm.

- Không hề gì. - Chỉ huy trưởng phi đội nói.

Trong suốt cuộc oanh tạc này, cũng như trong hầu hết các cuộc oanh tạc mà tôi đi theo, viên phi công FAC và viên chỉ huy trưởng phi đội luôn trao đổi với nhau một cách nhã nhặn, hầu như rất khiêm tốn.

Tôi hỏi viên đại úy ai đã trồng trọt các nương rẫy này.

- Đó là kiểu canh tác của người Thượng. Anh sẽ phải ngạc nhiên khi thấy những nơi họ làm nương rẫy. - Anh ta trả lời.

Đại úy Reese lái máy bay trở về theo hướng Đông trên thung lũng sông Trà Khúc. Dãy nhà bốc khói dọc theo con sông lúc này đã dài khoảng một cây số rồi ngoặt xa con sông để đi vào cánh đồng, nơi có hai ngôi nhà đang bốc cháy, đánh dấu nơi các đơn vị bộ binh tiền tiêu đã đến. Viên đại úy thấy không cần thiết nói chuyện với viên chỉ huy phi đội nữa nên quay sang lắng nghe các mẩu chuyện đang trao đổi trên mặt đất. Thông tin vô tuyến điện giữa các đơn vị mặt đất đập vào tai chúng tôi giữa những tiếng nổ loẹt xoẹt của sóng nhiễu trong khí quyển.

“Chúng tôi bắt được một Việt Cộng, nhưng chúng tôi chưa lấy cung”, có tiếng ai nói.

“Hắn có mang vũ khí không?”, có tiếng hỏi.

“Hắn mặc quần áo bà ba đen, kiểu ống ngắn, nhưng không có vũ khí”, người thứ nhất trả lời. “Có khả năng hắn đang giấu ở đâu đó. Chúng tôi bắt được hắn cách nơi chúng ta ở đêm qua bốn trăm mét về phía Nam.”

Viên đại úy nói với tôi:

- Ngày hôm qua, có năm Việt Cộng chạy vào một cái hầm rồi bắn trả chúng tôi và cả nhóm đã bị diệt. Tất cả các làng chung quanh đều có hố cá nhân và công sự ngầm. Nơi này hoàn toàn thân Việt Cộng hoặc do Việt Cộng kiểm soát.

Nhìn xuống dưới máy bay, các làn khói từ các ngôi nhà đang cháy ở trong thung lũng đã trộn lẫn với nhau làm thành một màn mây mù mỏng trôi dần về phía Đông.

Tôi tranh thủ thời gian tạm ngừng nói chuyện để hỏi về chủ trương ném bom, nghĩa là chủ trương ném bom các làng xã mà anh ta, với tư cách là một phi công FAC, đã giúp tiến hành.

- Chúng tôi có hai loại oanh kích: oanh kích theo kế hoạch chuẩn bị trước và oanh kích ngay lập tức. - Anh ta trả lời. - Oanh kích theo kế hoạch chuẩn bị trước là khi chúng tôi nói với dân: “Được rồi, các người đã tỏ ra không tốt với chúng tôi đã hai, ba tháng nay rồi và chúng tôi không thể đợi cho đến khi các người trở thành người tốt được, nên chúng tôi phải quét sạch các người đi. Chúng tôi ra thời hạn cho các người phải ra khỏi vùng này trong vòng 24 tiếng đồng hồ”. Thông thường chúng tôi cho họ 24 giờ. Đó là oanh kích theo kế hoạch chuẩn bị trước. Còn loại oanh kích ngay lập tức nữa. Này nhé, khi có một đơn vị Lục quân ở gần làng và họ bị súng trong làng bắn, họ sẽ nói: “Được rồi, dân chúng các người phải ngừng tiếng súng ngay nếu không chúng tôi sẽ đánh các người ngay bây giờ”. Tất nhiên đó là trường hợp mà hầu hết mọi người trong làng đều ủng hộ Việt Cộng. Dân làng không cần được thông báo sẽ có oanh kích khi chúng tôi đang bay làm nhiệm vụ hợp đồng tác chiến trong một cuộc hành quân như chúng ta đang làm bây giờ.

Trong khi đang nói chuyện, chúng tôi đã bay đến cửa ngõ thung lũng, nơi con sông chảy ra cánh đồng dọc bờ biển. Tại đây, khói cũng đang bay lên dọc theo một con đường và nhiều nhà đang bốc cháy. Những dòng khói đang lan ra hướng Tây, về phía Lữ đoàn 1 của Sư đoàn 101 khi họ đang di chuyển về phía Đông, đi đến đâu họ đốt nhà đến đó.

- Bọn đang đốt các túp lều dưới kia là Lực lượng Phòng vệ Dân sự. - Đại úy Reese nói. - Họ là người Thượng do Lực lượng Đặc biệt Mỹ đào tạo.

Một con đường cái duy nhất chạy dọc theo chiều dài thung lũng, uốn lượn theo dòng sông. Giữa các làng đang bị Lực lượng Phòng vệ Dân sự đốt và các làng bị Lữ đoàn 1 đốt, con đường ken đặc gia súc và người dân đang gánh đồ đạc trên vai. Gần con đường, một trại Lực lượng Đặc biệt Mỹ cắm trên đỉnh trọc một quả đồi tròn, quả đồi duy nhất trong lòng thung lũng, nhìn xuống một ngôi làng lớn nhà cửa chen nhau trong một khoảnh đất vuông có công sự bao quanh. Viên đại úy nói đó có thể là một ấp “tân sinh” và vì vậy không bị thiêu hủy.

Khi chúng tôi lại quay về hướng Tây, tôi hỏi anh ta về các nhiệm vụ không thám và làm thế nào mà anh ta phân biệt được đâu là các lán và lối mòn của địch sử dụng và đâu là các ngôi nhà và đường đi của dân chúng.

- Phải tìm cho thấy những sự thay đổi, một cái gì khác biệt. - Anh ta nói. - Thông thường, chúng ta bay cao gần 500 mét để tìm các lối mòn, những dãy cây và những lều lán. Hình như một sự thật hiển nhiên là mọi vật nằm ở chỗ trống là thân thiện, do vậy những gì anh thấy ẩn nấp dưới rặng cây thì có thể nghi ngờ là không thân thiện bởi vì có thể đó là Việt Cộng. Chúng tôi báo cáo mục tiêu khi thấy các ngôi nhà tranh nằm ẩn dưới các hàng cây.

Tôi chỉ ra rằng, trừ trường hợp ở các ấp “tân sinh”, còn hầu hết các nhà dân đều thường xây dựng dưới bóng những rặng cây.

- Đúng, dân chúng xây nhà dưới rặng cây. Nhưng ở vùng quê này, khi ta thấy có một ngôi nhà không có ruộng rẫy chung quanh thì có thể đó là nhà của Việt Cộng. Cũng có thể đó là một kho gạo.

Tôi hỏi ai sống trên núi.

- Là người Thượng nhưng cũng có nhiều người Kinh. Hầu hết dân chúng đã bị đưa ra khỏi núi, do đó chẳng ai còn có việc gì ở đấy nữa, trừ Việt Cộng. Ngay cả người Thượng cũng hợp tác với Việt Cộng, chúng tôi cũng sục tìm các lối mòn lên tận trên các ngọn núi.

Tôi đã thấy nhiều ngọn đồi trở thành nương rẫy và hầu hết đều nhằng nhịt lối mòn, vì vậy tôi hỏi viên đại úy những lối mòn này.

- Tôi phải nhìn thật kỹ các lối mòn này. - Viên đại úy trả lời. - Nếu có người đi qua đám nương nào thì cỏ bị rạp xuống.

Tôi hỏi liệu có thể từ trên máy bay thấy được cỏ vừa mới rạp xuống không.

- Ồ ! Có chứ, có thể khẳng định như vậy. - Anh ta nói.

Trung tâm Không yểm Trực tiếp gọi để báo có tốp hai máy bay không sử dụng hết bom trong trận oanh kích trước và hiện đang tìm một mục tiêu để sử dụng hết số bom còn lại, do đó Trung tâm Không yểm Trực tiếp gợi ý đại úy Reese tìm mục tiêu thứ hai.

Để đến mục tiêu thứ hai này, chúng tôi bay về hướng Nam và bay qua một dãy núi cao khoảng hơn 300 mét rồi đến một thung lũng nhỏ từ lâu không người trồng trọt, nơi đây các thửa ruộng bậc thang đã thành hoang dại, những nền nhà thì cỏ cây đã mọc lấp đi một nửa. Khắp cả thung lũng, những hố bom B.52 chằng chịt làm thành bốn đường thẳng, mỗi đường dài gần hai cây số. Một dãy hố bom của một trận oanh kích bắt đầu từ đường sống núi trên phía Bắc của thung lũng rồi chạy qua các nương rẫy và một con suối, đi thẳng về phía Nam ngọn đồi và mất hút dần. Các tọa độ biểu thị một ô vuông mỗi chiều một trăm mét trong dải rừng ở phía Nam ngọn đồi.

- Chúng tôi sắp đánh vào nơi quân ta đã sục vào cách đây một tuần. - Đại úy Reese nói. - Họ đã phát hiện vài ngôi nhà và đã đốt sạch. Và sáng hôm qua, một phi công FAC phát hiện thấy có ít khói bốc lên ở đây nữa, do đó chúng tôi sẽ phải oanh tạc.

Rồi nhìn vào bảng điều khiển, anh ta kêu lên:

- Chết thật, tôi quên kéo chốt an toàn của quả rốc két! Đó là lý do tại sao chúng không nổ. – Dừng một lát, anh ta tiếp tục. - Anh có thể thấy là trước đây, họ đã đánh mục tiêu này rồi.

Reese muốn nói đến chục hố bom và những vệt nâu đen do bom na-pan văng tung tóe làm rừng cây ở trong khu vực mục tiêu cháy lỗ chỗ. Anh ta giải thích:

- Đó là một căn cứ Việt Cộng. Mục tiêu này đã có đánh số rồi. Tất cả các vùng căn cứ V.C đều có mang số cả.

Các máy bay F-4 dành cho cuộc oanh tạc lần thứ hai đã bay trên thung lũng và điện đàm rằng, gộp tất cả lại, họ đang mang theo sáu quả 500 pound (220kg) và bốn ống rốc két, mỗi ống 19 quả. Đại úy Reese cho chiếc máy bay O-1 nhào xuống và một tiếng nổ kim khí rất đanh khi quả rốc két phốt-pho phóng ra từ cánh phải máy bay của chúng tôi. Tiếp đó, xuất hiện một cột khói trắng bay lên từ khu rừng. Viên đại úy chỉ dẫn cho chỉ huy trưởng phi đội F-4 phải ném bom phía Tây cột khói 40 mét. Hai quả bom ném xuống trong vòng bay đầu tiên đã đánh vào phía Đông cột khói 100 mét. Các quả bom ném xuống trong vòng bay thứ hai đã rơi vào phía Đông cách 50 mét và trong vòng bay thứ ba và lần cuối, các quả bom đã rơi vào trong vòng 30 mét cách cột khói trắng. Cuộc oanh tạc tiếp tục với bốn đợt rốc két, mỗi đợt rải ra trên một chiều dài từ sáu mươi đến bảy mươi mét rừng, bốc lên các cuộn khói nâu. Các rốc két đều trúng mục tiêu hoặc trong vòng ba mươi mét.

Sau đó, đại úy Reese lái máy bay O-1 lao xuống và bay lượn vòng trên các hố bom để quan sát thiệt hại. Bên cạnh một hố bom trong rừng cây, anh ta thấy một đống đổ nát mà anh ta cho là tàn tích của một chiếc lán và trong Bản báo cáo đánh giá thiệt hại ném bom, anh ta ghi là một “Cấu trúc Quân sự bị phá hủy”. Đến 11 giờ, anh ta bay trở về Chu Lai.

Căn cứ Chu Lai đã mở rộng rất nhiều kể từ ngày thành lập năm 1965, đến tháng 8 năm 1967, chiều dài của nó lên đến khoảng mười sáu cây số và chiều rộng tám cây số, chiếm một trong những dải bãi biển có thể xếp vào loại đẹp nhất thế giới. Một bãi biển rộng cát trắng tinh chạy theo chiều dài căn cứ có hình hơi cong lưỡi liềm và nước biển Đông trong suốt một màu xanh lơ, ngay cả trong những ngày nhiều mây. Trên nhiều đoạn bờ biển, những đợt sóng ấm áp đều đặn cuộn lăn tăn vào bờ qua các dải cát; một ngọn núi nằm xa ngoài biển khơi. Vùng đất bị chiếm làm căn cứ trước kia rất đông dân cư. Một mũi đất đồi dôi ra biển dài gần năm cây số tạo thành chỏm phía Bắc của căn cứ trước kia vốn là một vùng chen chúc nhiều làng chài. Khi tiến hành mở rộng căn cứ, nhiều truyền đơn đã thả xuống các làng, loan báo các làng sẽ bị phá bỏ để lấy chỗ xây dựng căn cứ. (Các tập hồ sơ của Lính thủy đánh bộ và Lực lượng Đặc nhiệm Oregon có lưu các loại truyền đơn này). Dân chúng phải di dời, các làng bị san ủi sạch và người Mỹ xây dựng căn cứ trên dải đất đã biến thành trơ trụi này.

Sau khi hạ cánh, đại úy Reese lái ngay xe Jeep đi về Sở chỉ huy. Chuyến đi dài 20 phút từ sân đỗ của máy bay FAC đến Sở chỉ huy Lực lượng Đặc nhiệm Oregon qua những khu đất đầy cát bụi dài nhiều cây số đã được san ủi, đó đây lác đác những nhà chứa hàng, kho đạn và trạm sửa chữa, rồi sau đó chạy dọc theo bờ biển khoảng gần hai cây số. Trời vẫn còn u ám, đầy mây và bờ biển không có bóng người. Những vỏ lon bia vứt vương vãi trên bãi cát xung quanh các mái nhà bạt đơn sơ chống đỡ bằng các khung sắt, cũng là mái che chỗ ăn tối ngoài trời. (Khi mặt trời lặn, trên mặt sóng biển thường thấy các đầu người nhô lên và nhiều người lướt sóng trên các đệm hơi, trên bờ biển vẫn còn nhiều người lính nước da rám nắng mặc quần soóc tắm). Vượt qua bãi biển, con đường tiếp tục leo lên một ngọn đồi đến mũi đất nhô ra biển lởm chởm đá ở chót phía Bắc của căn cứ. Lên đến đỉnh mũi đất, đại úy Reese cho xe vòng qua phải và lái vào khu nhà chỉ huy của Lực lượng Đặc nhiệm Oregon. Ở giữa một sân duyệt binh đầy đất bụi với xung quanh là các trại lính thấp mái tôn, phất phơ hai lá cờ Mỹ và Nam Việt Nam (cờ ba sọc đỏ ngang trên nền vàng) treo cùng một độ cao chính xác ngang nhau trên hai cột cờ đứng kề nhau. Hai miếu nhỏ thờ Phật cao khoảng ba mét tường sơn rực rỡ có trang trí chữ Hán cũng còn trên sân duyệt binh. Đó là vết tích duy nhất còn lại của các làng Việt Nam đã từng một thời tồn tại nơi đây.

Đại úy Reese ăn bữa trưa nhẹ rồi đi về trại làm một giấc ngủ dài. Vào bất cứ giờ nào trong ngày sau mười một giờ trưa, chúng ta cũng thấy hai hay ba trong số sáu phi công nằm dang rộng tay chân trên giường, đang ngủ bên làn gió mát nhẹ của chiếc quạt điện. Các phi công thay phiên nhau túc trực tại phòng kiểm soát trung tâm, ở trong một trại lính trên sân duyệt binh. Phòng kiểm soát này giữ liên lạc thường xuyên với Trung tâm Không yểm Trực tiếp và các phi công FAC đang bay trên trời. Mặc dù các phi công này không bao giờ bay sau khi trời tối, nhưng một trong số bọn họ vẫn phải trực ở phòng kiểm soát này để giúp giám sát các cuộc ném bom tiến hành ban đêm và giúp hiệp đồng các chuyến bay đêm của máy bay AC-47 (vốn là máy bay DC-3 chuyển thành máy bay quân sự với tên gọi là Spooky) làm nhiệm vụ chi viện hỏa lực cho bộ binh trên mặt đất. Vào những đêm chiến sự trên mặt đất đặc biệt căng thẳng, một phi công phải trực suốt đêm rồi ngủ bù cả ngày hôm sau.

Trừ khi các phi công FAC đang bay phi vụ, còn thì sinh hoạt của họ hoàn toàn khép kín trong căn cứ. Rất có thể một phi công làm nhiệm vụ này tròn một năm mà chưa hề nói chuyện với một người Việt Nam nào hoặc chưa hề đặt chân lên một làng hoặc một thành phố nào ngoài Sài Gòn. Ngoại trừ các chuyến đi nghỉ ngơi và dưỡng sức ở các thành phố nước ngoài và các chuyến đi trên các máy bay FAC đến căn cứ Đà Nẵng để mua bia và nước giải khát, thường gọi là “chạy sục mua xô-đa”, cuộc đời của các phi công chỉ xoay quanh các phi vụ, trại lính, phòng kiểm soát trung tâm, nhà ăn, quán bar và nhà hát trong các câu lạc bộ sĩ quan.

Doanh trại phi công FAC là một trong nhiều dãy nhà mái tôn với các tường bao, có lưới chống muỗi ở nửa phía trên. Các trại lính được chia thành ba gian, mỗi gian bốn giường và các giường được ngăn cách bằng các tủ đứng cao, bằng kim loại để đựng quần áo. Nhiều phi công đã trang trí tường bằng những hình ảnh cắt từ tạp chí Playboy ra hàng tháng. Trên tường cạnh giường một viên thiếu tá, có bức hình to của Hoa hậu tháng 5/1967 đang đứng trên boong tàu dưới nắng, mặc chiếc áo sơ mi hồng không cài khuy lấn át cả hơn mươi chiếc hình nhỏ của vợ viên thiếu tá, trong đó có một hình chụp bà mặc bộ đồ tắm, hai tay chống nạnh, đứng trên bờ biển và hình đứa con trai tám tuổi đang đứng bên bờ hồ, tay cầm một con cá nhỏ đưa lên trước ống kính. Trên bàn của viên thiếu tá là một bình thuốc diệt côn trùng, một tập san Readers Digest tóm tắt các cuốn sách, một lon Pepsi-Cola, một quả bóng ten-nít, mươi viên đạn và miếng gỗ chạm một nắm tay to bằng thật, với ngón tay giữa trỏ lên. Người Việt Nam không có cử chỉ trỏ ngón giữa lên và loại điêu khắc này được làm ra chủ yếu dành cho lính Mỹ đi tìm kiếm mua vật kỷ niệm ở Việt Nam.

Đôi khi, các phi công trẻ chơi trò phóng phi tiêu lên một tấm bảng treo trên cửa và bọn họ cũng chơi cờ Monopoly(*). Một chiếc tủ lạnh chứa đầy bia và nước giải khát. Vì trời nóng, hầu hết phi công uống ít nhất hai lon bia hoặc nước giải khát mỗi ngày. Mỗi người phải tự giác bỏ mười lăm xu vào một chiếc hộp làm quỹ công cộng đặt phía sau tủ lạnh mỗi khi uống xong. Nhưng có ai đó hình như không thật tin vào chế độ tự giác, nên đã tìm cách chỉnh sửa lại một phần cách thức này bằng cách dán trước cửa tủ lạnh một tờ giấy có đầy đủ tên mọi người và những ai uống phải tự đánh dấu số lần uống và ghi số tiền anh ta đã bỏ vào thùng.

Ở phòng điều khiển trung tâm và ở những nơi khác có phi công tụ tập, luôn luôn có một không khí hài hước nhẹ nhàng và thân thiện. Một người đang đứng chơi quanh đấy nói đùa với một người khác một cách uể oải: “Quả là đẹp, một cuộc chiến tranh đẹp!”. Người thứ hai nói: “Đây là cuộc chiến tranh duy nhất bây giờ chúng ta mới gặp phải”. Bỗng một phi công FAC bước vào phòng đang có nhiều phi công đồng nghiệp và nói: “Đây là các phi công FAC cần cù chăm chỉ của chúng ta”. Anh ta nói với cái giọng không có ý muốn nói là có ai trong số này làm việc cần cù chăm chỉ mà cũng chẳng có ý muốn nói không có ai là không cần cù chăm chỉ.

Theo cung cách này, có thể nói các phi công FAC ít khi nói chuyện trực tiếp về chiến tranh nhưng cũng chẳng bao giờ không nghĩ đến chủ đề này. Tôi nghĩ kiểu cách thoải mái trong những câu chuyện hài hước phản ảnh đúng việc họ lựa chọn biểu tượng của phi đoàn là con chó Snoopy trong truyện tranh hài hước của họa sĩ Charles Schulz mô tả một con chó luôn mơ tưởng mình là phi công anh hùng nổi tiếng trong Thế chiến thứ nhất. Phía ngoài cửa của phòng điều khiển trung tâm, hình ảnh phác họa con chó Snoopy mang đôi kính to bự và chiếc khăn quàng kéo dài lê thê đang lái bổ nhào chiếc máy bay vận tải hai tầng cánh thời Thế chiến thứ nhất. Bức tranh hoạt hình vẽ các quả bom nổ tung ở phía dưới máy bay. (Trên bức tường của phòng điều khiển trung tâm Đức Phổ có một bức tranh to vẽ con chó Snoopy kèm theo ô ghi lời con chó nói: “Đồ Việt Cộng chết tiệt!”. Bản tin của Lực lượng Đặc nhiệm Oregon số nào cũng đăng một đoạn truyện tranh về con chó Snoopy và các phi công của Phi đoàn 20 Không trợ Chiến thuật tại Đà Nẵng thường dùng loại danh thiếp vẽ hình con chó Snoopy trên chiếc máy bay hai tầng cánh đang bắn súng máy. Trên tường của văn phòng phi đoàn là bức tranh màu cỡ lớn vẽ một lính Mỹ đang buồn rầu bước đi trong một trại tù binh. Phía dưới bức tranh có ghi lời thề của phi công Mỹ không khai báo cho địch những thông tin mà luật quốc tế không đòi hỏi phải khai. Các phi công thường xuyên bay trên bầu trời Bắc Việt Nam đã lấy bút chì vẽ thêm bộ râu và ria mép lên bộ mặt nghiêm nghị, ngoan đạo của anh tù binh Mỹ bị bắt.)

Tại câu lạc bộ sĩ quan Chu Lai dành cho Lực lượng Đặc nhiệm Oregon, giá hàng giải khát là hai mươi xu mỗi cốc và các phi công thường uống ba, bốn cốc mỗi buổi tối trước khi ăn. Một phi công nhận xét: “Với giá cả rẻ như vậy, anh không thể không uống”. Vào tối ngày 10 tháng 8, các phi công FAC lái xe đến nhà ăn của Lính thủy đánh bộ, nhà ăn được ưa chuộng nhất trong số nhà ăn tại căn cứ. Tại đây có phục vụ thịt dăm-bông, sườn, đùi heo, thịt gà. Tất cả đều được nấu đúng cách bảo đảm ngon miệng nhất như bữa ăn phục vụ tài xế xe tải trên xa lộ tại Mỹ và anh ăn tùy ý thích bao nhiêu cũng được. Một số sĩ quan Đại Hàn ngồi túm tụm với nhau quanh mấy bàn ăn. Phần đông số này đều thích đi nghỉ ngơi dưỡng sức tại một căn cứ Mỹ như ở Chu Lai, nơi họ được phép ăn trong các nhà ăn sĩ quan Mỹ, mua sắm hàng hóa trong các căng-tin của quân đội Mỹ và bơi trên bãi biển an toàn của căn cứ.

Câu chuyện trong bữa ăn thường xoay quanh các vấn đề đời sống phi công. Thường thường, các phi công trao đổi với nhau về những chuyện xảy ra trong ngày, đôi khi chê bai hoặc khen ngợi mức độ chuẩn xác của một số phi vụ máy bay ném bom. Họ bám khá sát các vấn đề hàng ngày và các vấn đề kỹ thuật của các phi vụ ném bom, ví dụ như oanh tạc ở độ cao nào là tốt nhất và làm thế nào biết được khi đã cắt bom mà bom không rơi. Tối nay, họ thảo luận về một sự kiện: một phi công phát hiện thấy một người trên mặt đất đang tìm cách trốn chạy vào một lùm cây để tránh bị phát hiện nên phi công ấy cho rằng đó là một Việt Cộng và đã gọi máy bay đánh bom vào lùm cây này. Bản thân sự kiện này tuy là chuyện thường ngày xảy ra nhưng sự kiện này lại có một nét bất bình thường: viên phi công FAC này đã bay vượt ra ngoài vùng trách nhiệm được giao và những quả bom ấy suýt giết chết mấy lính Mỹ ở gần đấy.

Một phi công khác nói anh ta cũng phát hiện thấy một Việt Cộng và sau đó đã gọi một máy bay đánh vào rừng cây nơi hắn biến mất.

Tôi hỏi anh ta làm thế nào để có thể biết đó là một lính Việt Cộng.

- À, thế này nhé, trông dáng đi của hắn có vẻ hiên ngang, bước chân nhấc cao giống như cách đi của một người lính thực thụ chứ không phải như của người nông dân thường bước kéo lê đôi chân. - Viên phi công trả lời.

Trong suốt thời gian tôi sống với các phi công FAC, họ chưa bao giờ bàn bạc về tình hình cuộc chiến, họ cũng không thể hiện sự căm thù kẻ địch. Họ trao đổi nhiều về chuyện lương bổng, phụ cấp, họ phàn nàn sự trì trệ trong thủ tục hành chánh về chuyện đề bạt, chuyện đi nghỉ ngơi và dưỡng sức ở thành phố nào thì thích hơn (phụ nữ Thái có hình dáng đẹp; ở Hồng Kông quần áo, trang bị điện tử và máy quay phim vừa tốt, vừa rẻ). Các phi công cười phá lên khi đọc tờ tin cho biết binh lính trước các chuyến đi nghỉ ngơi dưỡng sức sẽ được dạy về bệnh hoa liễu và cách làm thế nào để nhận biết khi mắc phải loại bệnh này. Các quân chủng Mỹ thường có thái độ dễ dãi đối với những binh lính hay đi các nhà chứa ở Việt Nam và ở các thành phố châu Á trong các chuyến đi nghỉ. Ở Hồng Kông, ngay mới gần đây, Lục quân sử dụng một gái điếm người Hoa lai Bồ Đào Nha, nói tạm được tiếng Anh, để giới thiệu cho binh lính cách thức tìm gái mại dâm trong các quán bar để tránh không xảy ra đánh nhau hoặc bị lừa. Điều này nhằm giảm bớt các vụ binh lính bị “chém đẹp” về tiền hoặc không hiểu ý muốn của các cô gái. Các phi công nói nhiều về điều kiện sống và thực phẩm ở các căn cứ khác. Có lần, trong một bữa ăn tối, đại úy Reese tham gia vào một cuộc thảo luận dài về các món ăn với một phi công khác và khi ăn một đĩa thịt dăm-bông, anh đã mô tả chi tiết về một bữa ăn thịt gà tại Đức Phổ...

Trong khi trò chuyện với nhau, tôi chưa bao giờ thấy các phi công nói về Việt Cộng với giọng tức giận nhưng họ lại tỏ ra khinh thường lính Lục quân so với Không quân, họ gọi lính Lục quân là “bọn bộ binh”. Cảm giác của họ đối với Lục quân na ná như cảm giác của nhóm cầu thủ trong một câu lạc bộ hay sinh viên trong một trường đại học đối với các đối thủ đang ganh đua với mình, nhưng đôi khi họ cảm thấy cay cú vượt quá mức ganh đua thân hữu. Một phi công nói với tôi:

- Bọn lính Lục quân đôi khi không quan tâm đến nhiệm vụ của chúng tôi là gì, miễn là bọn họ yêu cầu được một cuộc oanh tạc. Nếu như trường hợp tôi thì tôi sẽ không đưa lính của tôi đi làm một nhiệm vụ bất khả thi để phải lao vào chỗ chết như vậy. Còn tôi, tôi cũng phải có trách nhiệm với Không quân và tôi phải nghĩ đến sự an toàn của Không quân chứ. Đôi khi đó là một vấn đề khó, bởi vì trong những trường hợp như thế thì anh phải dám nhìn thẳng vào mặt chỉ huy và nói: “Không thể, thưa ngài, tôi không thể làm việc đó được”.

Tôi lấy làm ngạc nhiên về mức độ căng thẳng với nhau không những giữa các quân chủng mà còn giữa các đơn vị trong cùng quân chủng. Lính của Lữ đoàn 1 thuộc Sư đoàn Không vận 101 rất tự hào về việc đào tạo lính dù, và họ thường gọi lính bộ binh là “bọn chân đất” một cách khinh bỉ. Có một lần tôi đang ngồi trên xe chạy trong căn cứ Chu Lai vào một buổi chiều nóng nực với một lính dù của Sư đoàn 101, anh ta đã từ chối không cho một lính đang đợi xin đi nhờ xe, lý do chỉ vì tay xin đi nhờ là một “bộ binh chân đất” và đã là “lính chân đất thì không xứng đáng được đi nhờ xe”. Các sĩ quan cao cấp của Sư đoàn 101 và Lữ đoàn 3 thuộc Sư đoàn 4, anh này nói xấu anh kia trước mặt tôi rằng việc đếm xác chết của đơn vị anh kia là không đúng sự thật. Lữ đoàn 3 của Sư đoàn 4 đếm cả những người mà họ chỉ mới đoán là số địch có thể đã bị giết, một sĩ quan Sư đoàn 101 nói với tôi: “Chúng tôi không tính số địch phỏng đoán có thể đã bị giết. Chúng tôi chỉ tính số mình tận mắt thấy là chết thực sự. Đó là cách duy nhất của chúng tôi”. Trong một lần khác, một sĩ quan của Lữ đoàn 3 thuộc Sư đoàn 4 cũng nói lời lên án tương tự đối với Sư đoàn 101, nói rằng cách tính tỷ lệ bị diệt tính theo số vũ khí của Sư đoàn 101 còn tồi tệ hơn cách tính của Lữ đoàn 3, hàm ý nói rằng Sư đoàn 101 còn kém xa so với Lữ đoàn 3 mỗi khi cần xác định kẻ thù là ai, phải giết ai. Lính Lục quân và Không quân đều có các nhận xét chế nhạo Lính thủy đánh bộ...

Sau bữa ăn tối hôm đó, các phi công có hai phim chiếu để tùy ý chọn: một phim ở nhà hát ngoài trời trên bờ biển gần nhà ăn của Lính thủy đánh bộ còn phim kia chiếu tại Câu lạc bộ sĩ quan Lực lượng Đặc nhiệm Oregon. Câu lạc bộ sĩ quan này nằm trên đỉnh một ngọn đồi cao khoảng một trăm năm mươi mét, nhìn xuống một bãi cỏ rải rác những bụi cây trải dài ra tận biển. Một số bàn ghế được sắp xếp trong một phòng rộng có tường bao ba phía, mái che rộng bằng lá cọ giống như một nhà kho; mặt tiền nhìn ra biển. Phía sau, có một quầy bar dài, một đầu để một máy truyền hình, các chiếc ghế xoay, một bảng phóng phi tiêu và các nhân viên quán bar mặc áo kiểu Hawaii sặc sỡ. Phim được chiếu ở phía trước. Câu lạc bộ nhìn bao quát cả một đoạn bãi biển cong lưỡi liềm dài hai mươi cây số. Ngay cả trong ngày nóng nhất, tĩnh lặng nhất, vẫn có một làn gió nhẹ từ biển thổi vào. Ban đêm, trên biển khơi, các tàu đánh cá của dân bản xứ được lệnh phải đốt đèn lên khi trời tối. Hầu hết các đêm, tiếng pháo và bom vẫn nổ ầm ầm liên tục, đôi khi thắp sáng cả một vùng trời phía gần bờ. Trong những cuộc hành quân, các dù pháo sáng do pháo binh bắn lên hoặc máy bay thả xuống, trông giống như treo lơ lửng trên các núi suốt cả đêm.

Cách câu lạc bộ gần hai trăm mét, bãi đáp trực thăng của bệnh viện căn cứ nằm trên một triền đồi cao có sườn dốc thẳng đứng xuống biển. Mỗi ngày nhiều lần, một chiếc trực thăng vụt nhô lên từ bờ biển, với tốc độ cực nhanh rồi vội vàng hạ cánh xuống bãi đáp trải nhựa đường ở ngay phía trước Câu lạc bộ sĩ quan trông như một sân khấu nhỏ màu đen. Hai bóng người chạy tới chiếc trực thăng rồi chạy trở về bệnh viện, khiêng một người trên cáng. Nếu tấm vải che lên đến hai vai người nằm trên cáng, đó là một người bị thương và nếu tấm vải che kín cả đầu, đó là một người đã chết. Ngồi trong câu lạc bộ, chỉ một số sĩ quan ở hàng ghế phía trước có thể thấy được bãi đáp trực thăng của bệnh viện nên hầu hết các sĩ quan không chú ý khi chiếc trực thăng đến. Nhưng khi họ đứng trước câu lạc bộ vào giờ ăn ngoài trời cuối tuần và chăm chú chờ món thịt nướng trên ngọn lửa than đỏ hồng mà lúc ấy có một chiếc trực thăng hạ cánh xuống bệnh viện thì tiếng ồn ào trò chuyện bỗng nhiên ngưng bặt, những người đang ăn hay đang uống vội ngẩng đầu lên để xem hai bóng người đang khiêng một người bị thương hay một người chết đến bệnh viện.

JONATHAN SCHELL
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên