31/05/2008 10:00 GMT+7

Ký ức không quên - kỳ 1

JONATHAN SCHELL
JONATHAN SCHELL

TTO - Vào mùa xuân năm 1967, Bộ Tư lệnh viện trợ quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam tổ chức một lực lượng mới, gọi là Lực lượng Đặc nhiệm Oregon, bằng cách tập hợp Lữ đoàn Bộ binh nhẹ 196, Lữ đoàn 3 của Sư đoàn Bộ binh 4 và Lữ đoàn 1 của Sư đoàn Không vận 101.

l5bMcpDi.jpgPhóng to

Lực lượng này bố trí tại tỉnh Quảng Ngãi, là tỉnh thứ năm ở phía Nam khu phi quân sự dọc theo bờ biển.

Việc thành lập lực lượng đặc nhiệm mới – một lực lượng đặt dưới sự chỉ huy của Lực lượng Lính thủy đánh bộ 3 – là nhằm để tăng cường đối phó với chiến sự đang tăng lên dọc khu phi quân sự. Dãy Trường Sơn ở đoạn Quảng Ngãi lượn ra gần biển, giữa núi và biển là một dải đất bằng phẳng có thể trồng trọt được. Dải đất này dài khoảng tám mươi cây số, chỗ rộng nhất là hai mươi lăm, nơi hẹp nhất là mười cây số. Lực lượng đồng minh của Mỹ chia vùng đất này – vốn là nơi sinh sống của hơn 80% trong tổng số 650.000 dân của tỉnh – thành bốn Khu Trách nhiệm chiến thuật, phạm vi xấp xỉ bằng nhau, và mỗi khu được giao cho một lữ đoàn chịu trách nhiệm. Tính từ Bắc xuống Nam là các lữ đoàn: Lữ đoàn nhẹ 196, Lữ đoàn Lính thủy đánh bộ Hàn Quốc (đã đổ bộ lên Quảng Ngãi từ mùa hè năm 1966), Lữ đoàn Quân lực Việt Nam Cộng hòa (viết tắt là ARVN và người Mỹ quen gọi là Arvin) và Lữ đoàn 3 của Sư đoàn 4. Còn Lữ đoàn 1 của Sư đoàn Không vận 101 làm lực lượng dự bị, sẵn sàng cơ động bằng máy bay lên thẳng đến bất kỳ nơi nào trong tỉnh để giáng những đòn tấn công bất ngờ vào đối phương.

Nhiệm vụ chính của Lực lượng Đặc nhiệm Oregon là tìm diệt cái gọi là các đơn vị chủ lực của Việt Cộng (cũng gọi là V.C. hoặc Mặt trận Dân tộc Giải phóng) và quân đội Bắc Việt Nam đang hoạt động trong tỉnh Quảng Ngãi. Tuy nhiên, để tránh việc lặp đi lặp lại những cách hành quân theo cùng một kiểu có thể giúp đối phương dự đoán được các cuộc di chuyển của mình, các bộ phận của Lực lượng Đặc nhiệm Oregon thỉnh thoảng cũng hành quân ra ngoài phạm vi Quảng Ngãi, lên đến Quảng Tín(*) ở phía Bắc hoặc vào Bình Định ở phía Nam.

Khu vực hành quân của Lực lượng Đặc nhiệm Oregon là vùng ven biển nhiều rừng núi của Nam Việt Nam trải dài từ phía Nam thành phố Huế đến tỉnh Bình Định, vùng này từ xưa đã nổi tiếng vì phong cảnh thiên nhiên đẹp và con người tuy nghèo nhưng giàu lòng tự hào và mến khách. Dải đất này tuy bằng phẳng nhưng lại là đất cát chẳng mấy màu mỡ, không thuận lợi cho việc trồng trọt. Vì vậy nên từ xa xưa đã có một bộ phận lớn nông dân làm các nghề khác như đánh cá ở biển Đông hoặc khai thác gỗ trên rừng. Nhiều người làm nghề thủ công tại nhà; và vùng này đã từng nổi tiếng về lụa tơ tằm và nghề dệt chiếu với nguyên liệu là những cây cói mọc đầy hai bên bờ các dòng sông.

Cư dân bản địa các tỉnh nhiều núi rừng này phần lớn là dân vùng nông thôn, có giọng nói ngang ngang nặng âm sắc địa phương, người Sài Gòn nghe dễ nhận ra đó là người ở các tỉnh. Phần lớn người dân có thân hình thấp hơn người ở nơi khác, dáng vẻ chất phác, chắc nịch, cằm vuông, bản tính thật thà, dũng cảm. Mãi đến năm 1964, đa số các trường tiểu học trong vùng vẫn viết lên tường câu châm ngôn từ ngàn đời của người Việt “Đói cho sạch, rách cho thơm”. Có lẽ vì đất đai quá cằn cỗi không giúp cho con người làm nên những cơ nghiệp lớn, nên những gia đình khá giả trong vùng thường đặc biệt quan tâm cho con cái ăn học đến nơi đến chốn. Trước khi Việt Nam bị chia cắt vào năm 1954, trình độ học vấn của phần lớn dân chúng ở miền Nam Việt Nam thấp hơn nhiều so với miền Bắc, nhưng sinh viên từ các tỉnh rừng núi ven biển này lại có tiếng là xuất sắc tại trường Đại học Hà Nội, được xem là trường danh tiếng nhất của cả nước lúc bấy giờ. Một số lớn nhà văn nổi tiếng của Việt Nam sinh ra và lớn lên ở vùng đất này. Ở sâu trong vùng núi của mấy tỉnh phía Bắc là những bộ tộc thiểu số mà người Pháp gọi là người Thượng, sinh sống bằng cách đốt rẫy làm nương, trồng tỉa, đến khi đất bạc màu họ lại di chuyển đi nơi khác.

Theo sử sách ghi lại, nhân dân trong vùng có tiếng là ngang tàng, quật khởi. Chính từ hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định mà các Chúa Nguyễn hồi thế kỷ 16 đã tiến hành mở mang bờ cõi tiến xa về phương Nam. Khi người Pháp bắt đầu cuộc chinh phục Việt Nam vào cuối thế kỷ 19, Quảng Ngãi và Bình Định là nơi có phong trào vũ trang chống Pháp mãnh liệt nhất, và cũng chính tại các tỉnh này đã nổ ra đầu tiên các cuộc nổi dậy của nông dân trong những năm 1930 chống bọn quan lại phục vụ cho thực dân Pháp. Sau Thế chiến thứ hai, khi Việt Minh phát động cuộc cách mạng và cuối cùng đã đuổi được người Pháp ra khỏi Việt Nam, Quảng Ngãi trở thành trung tâm chính của hoạt động cách mạng và quân Pháp chưa bao giờ đưa được một lực lượng lớn nào vào đóng trong tỉnh.

Năm 1948, để tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng, Hồ Chí Minh đã chia đất nước thành bốn loại vùng quân sự: vùng tự do, vùng căn cứ du kích, vùng chiến tranh du kích và vùng tạm chiếm. Theo đó, các tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi và Quảng Nam (phía Bắc Quảng Tín) là những vùng tự do, có nghĩa là các vùng này được giải phóng khỏi quân Pháp và lực lượng của Bảo Đại. Thị trấn Đức Phổ ở khu vực phía Nam của tỉnh Quảng Ngãi lúc đó đã trở thành một trong số các căn cứ lớn nhất của Việt Minh. Con gái Đức Phổ vốn có tiếng xinh đẹp, nhưng nóng nảy, có tinh thần độc lập. Vì vậy mà có một bài vè khuyên răn các chàng chiến binh đến Đức Phổ phải chung thủy với cô bạn gái Đức Phổ vốn hay ghen của mình, nếu không thì các anh sẽ có nguy cơ mất chức năng đàn ông bởi bàn tay của chính bạn gái mình như chơi!

Năm 1954, phần lớn bộ đội và cán bộ chính trị Việt Minh tập kết ra miền Bắc, nhưng vẫn còn một số lực lượng cốt cán đáng kể được cài lại ở Quảng Ngãi và các tỉnh lân cận nhằm duy trì ảnh hưởng của cách mạng, không cho ảnh hưởng của chính quyền Sài Gòn vượt ra khỏi phạm vi một số ít thành phố trong vùng. Suốt những năm đầu thập niên 1960, cả một thế hệ thanh niên nông thôn ở đây không hề biết đến một chính quyền nào khác ngoài Việt Minh và Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Họ chẳng những học chữ trong các nhà trường của Việt Minh và Mặt trận Giải phóng mà họ còn học các bài hát cách mạng, học đệm đàn ghi-ta và đàn măng-đô-lin trong phong trào ca nhạc do Mặt trận phát động.

Đầu năm 1962, chính quyền Sài Gòn coi các tỉnh này là căn cứ địa của Mặt trận Giải phóng Dân tộc, nên đã đặc biệt đẩy mạnh việc thực hiện chương trình “Ấp chiến lược” ở đó. Chương trình nhằm tách dân ra khỏi chiến sĩ và cán bộ của Mặt trận đang sống hòa lẫn trong dân. Và để thực hiện điều này, một trong những biện pháp thường được chính quyền áp dụng là buộc dân chúng rời khỏi làng cũ đến lập ấp mới có hàng rào phòng thủ ở một nơi khác. Dưới chế độ khổ sai do chính quyền đặt ra, mỗi người đàn ông phải xây đắp một đoạn tường bao quanh ấp chiến lược. Nếu gia đình nào từ chối không di chuyển đến ấp chiến lược, binh lính chính quyền Sài Gòn có quyền đốt cháy nhà cửa và đồng lúa của họ.

Vào khoảng cuối năm 1962, một số nơi ở Quảng Ngãi – đặc biệt là các khu vực ở ven núi – người ta thấy rải rác đây đó tàn tích của những ngôi nhà bị thiêu rụi. Ở Quảng Ngãi cũng như ở các nơi khác của miền Nam, chương trình này đã làm người dân sôi sục căm thù chính quyền Sài Gòn, khiến hai năm sau chính phủ phải hủy bỏ và thay thế bằng chương trình Ấp Tân sinh. Thông thường thì khi chính quyền xây dựng được một ấp chiến lược, Mặt trận cũng nhanh chóng lập lại tổ chức, hoặc cứ tiếp tục duy trì mối liên hệ với dân làng tại nơi ở mới, và kết cục là hầu hết các ấp chiến lược lại nằm dưới sự kiểm soát của Mặt trận. Những người ủng hộ Mặt trận thường viết khẩu hiệu lên cổng hoặc tường quanh ấp. Có một câu thường xuất hiện, là hai câu thơ trích trong một bài thơ cổ Trung Quốc, đại ý: “Vạn Lý Trường Thành có thể đứng vững bao lâu, khi mà nền móng không phải là lòng người?”.

Cuối tháng 8 năm 1967, sau bốn tháng hành quân, Lực lượng Đặc nhiệm Oregon tuyên bố đã tiêu diệt và đếm xác được 3.300 binh sĩ đối phương, bắt giữ 5.000 người, và thu được 800 khẩu súng ở các nơi cất giấu hoặc gần xác người chết. Họ cũng tuyên bố tổn thất phía Mỹ có 285 chết và 1.400 bị thương. Trong suốt tháng Tám năm đó, tôi cố gắng đi thật nhiều nơi ở Quảng Ngãi để trò chuyện với binh lính và thường dân, và cũng để trực tiếp quan sát một số cuộc hành quân đang được Lực lượng Đặc nhiệm Oregon tiến hành ở phía Bắc Quảng Ngãi và cả vài nơi ở Quảng Tín, giáp với Quảng Ngãi.

Qua các chuyến đi, tôi được các viên chức dân sự cho biết kể từ khi Lính thủy đánh bộ Mỹ đến đây vào năm 1965, các cuộc hành quân đã làm số dân bị gom vào các “trại tị nạn” của chính phủ tăng thêm hơn 100.000 người, đưa tổng số chính thức lên 138.000 người vào khoảng giữa tháng Tám. Các quan chức người Mỹ và Việt Nam quản lý các trại này ước tính có khoảng 40% dân số của tỉnh đã lần lượt qua các trại của họ trong hai năm trước. Cũng trong thời gian này, Lính thủy đánh bộ Mỹ, Lục quân, Lính thủy đánh bộ Hàn Quốc và quân đội Sài Gòn đã hủy diệt khoảng 70% các làng trong tỉnh - có nghĩa là 70% số nhà dân bị hủy diệt.

Lần đầu tiên tôi nhận thức được sự hủy diệt này là khi tôi dành mấy ngày đầu tháng Tám để đi quan sát thực địa bằng máy bay với tư cách là một phóng viên. Tôi ngồi ở phía sau viên phi công trên một chiếc máy bay quan sát O-1 Cessna một cánh quạt, hai chỗ ngồi, quan sát bằng mắt thường toàn bộ dải đất ven biển đông dân của tỉnh. Cứ khi nào có điều kiện là tôi tự mình kiểm tra lại con số tỷ lệ phần trăm số nhà bị tiêu hủy so với ước tính của họ. Trong một số quận huyện, tôi cũng có thể kiểm tra ước tính của tôi cùng với các viên chỉ huy trên mặt đất, mặc dù không có con số nào được công bố chính thức cả. Từ trên độ cao được quy định cho máy bay FAC(*) là một ngàn năm trăm bộ (456m), tôi khó nhận biết được con người trừ khi họ đội nón lá, nhưng tôi lại có thể dễ dàng quan sát nhà cửa và tàn tích của những ngôi nhà bị thiêu hủy.

Nhà cửa ở Quảng Ngãi nằm rải rác dưới những lùm cây. Từ trên máy bay, những lùm cây nổi lên như những hòn đảo màu xanh thẫm trên nền vàng hoặc xanh nhạt của đồng lúa. Nhìn từ không trung, những mái nhà còn nguyên vẹn trông giống như những mảng hình vuông màu nâu sẫm, tro tàn của những ngôi nhà vừa bị đốt cháy thì như những mảng hình vuông màu xám, còn nền đất đã bị nước mưa gột sạch của những ngôi nhà bị thiêu hủy trước đó một tháng hoặc lâu hơn thì lại như những mảng hình vuông màu vàng hoặc đỏ. Khi nhà cửa bị bộ binh đốt cháy, một số bức tường làm bằng tre đan trát bùn hoặc xây bằng đá vẫn còn đứng vững; nhưng ở những ngôi nhà bị ném bom hoặc xe ủi đất tàn phá thì tường nhà đều bị ủi sập hoặc san lấp xuống ruộng lúa. Cách phá hoại nói chung cũng tương tự như thế đối với những làng mạc, ruộng đồng đông dân hơn nằm giữa vùng núi và bờ biển. Vẫn còn những ngôi làng với chiều rộng vài cây số trải dài hai bên đường Số 1, một con đường hai làn xe, nơi rải nhựa nơi không, chạy dài trên toàn bộ dải đất ven biển và gần như chia đôi dải đất này. Số làng còn lại, trừ một số ngoại lệ tôi sẽ nêu sau, đều đã bị thiêu hủy.

Ở Bình Sơn, huyện xa nhất về phía Bắc của tỉnh, những ngôi nhà trước đây được dựng trên vùng đất bằng phẳng đến tận sông Trà Bồng đã bị thiêu hủy toàn bộ. Trong thung lũng sông Trà Bồng, trước đây là vùng đất trồng trọt trải dài khoảng 15 cây số vào sâu trong nội địa, những ngôi nhà nằm trên suốt chiều dài khoảng 10 cây số ở mạn Bắc dòng sông cũng đều bị thiêu hủy. Chỉ còn tồn tại thị trấn Trà Bồng nằm sâu giữa vùng đồi núi với dân số mấy ngàn người, nhờ có một doanh trại lớn của Lực lượng Đặc biệt đóng ở đó. Doanh trại này đứng tách riêng ra trên một ngọn đồi nhỏ trơ trụi, được bảo vệ lần lượt từ trong ra bằng những hàng rào dây kẽm gai, đến hàng rào làm bằng cọc tre vót nhọn, và ngoài cùng là những con hào chạy ngoằn ngoèo hình chữ chi. Bên trong là một cụm lán trại thấp xây bằng những bao cát nặng nề với mái lợp tôn.

Dọc con đường Quốc lộ 1 về phía Đông cho đến tận bờ biển thuộc huyện Bình Sơn có đến 70-80% số nhà đã bị thiêu hủy. Về phía Nam sông Trà Bồng, tại huyện Sơn Tịnh, vốn thuộc Khu Trách nhiệm Chiến thuật của Lính thủy đánh bộ Hàn Quốc, tình trạng cũng giống như thế. Dọc theo mạn Nam sông Trà Bồng, trong khu vực của cái gọi là Đề án Phát triển Cách mạng gần làng An Điềm, nhà cửa vẫn còn nguyên - tuy rằng như tôi đã nêu, nhà cửa ở mạn Bắc bên kia sông thuộc Khu Trách nhiệm Chiến thuật của Lữ đoàn bộ binh nhẹ 196 đều bị thiêu hủy. Về phía Đông của Quốc lộ 1 thuộc huyện Sơn Tịnh - trừ một vành đai khoảng vài cây số dọc con đường - có đến 80-90% số nhà cửa từ đó đến sát bờ biển đã biến thành tro bụi. Dọc theo sông Trà Khúc, vừa là ranh giới phía Nam của huyện này, nhà cửa còn nguyên vẹn trên khoảng mười cây số tính từ con đường đến sườn núi, nhưng từ đó - tính từ điểm nơi thung lũng sông bắt đầu uốn lượn giữa các ngọn núi - nhà cửa đều đã ra tro.

Tại một đoạn sông uốn cong hình móng ngựa, tôi nhận ra những dãy hào do Mặt trận Dân tộc Giải phóng đào chạy xuống tận trung tâm của nhiều ngôi làng và có đôi khi nối hai ba làng lại với nhau. Khắp nơi trên tỉnh này, tôi đều thấy có những miệng hầm đen ngòm dẫn vào các hang động và mạng lưới địa đạo mà toàn dân dùng làm nơi tránh bom và Mặt trận thì dùng làm công sự chiến đấu, nơi ẩn náu và đường rút lui. Nhưng tại đoạn hình móng ngựa này, tôi thấy hầm hào đặc biệt dày đặc. Nằm sâu hơn trong vùng đồi núi, làng Phước Thọ vẫn còn nhà cửa, kề bên một trại Lực lượng Đặc biệt được bố trí trên một ngọn đồi. Nhà cửa trong làng dựng chen chúc trên một mảnh đất hình vuông mỗi chiều khoảng một trăm mét, có một đường hào bao quanh làng, còn những ngôi nhà riêng lẻ ở ngoài đồng thì đã bị san bằng. Điều này chứng tỏ làng Phước Thọ đã bị biến thành một ấp chiến lược.

Cũng như phần lớn các nơi khác trong tỉnh, thung lũng sông Trà Khúc đầy vết tích những hố bom đạn đủ kích cỡ. Những hố đạn pháo rộng một, hai mét rải rác trên các cánh đồng và trên những nền làng cũ, còn những hố bom nổ chậm có cái rộng hơn chín mét và sâu hơn hai mét, nhiều hố chứa đầy nước thành những cái ao nhỏ rải rác khắp nơi. Bom sát thương, loại bom khi có va chạm thì nổ bung ra tạo nên những hố nông làm tung tóe đất ruộng trông xa như những dấu hoa thị khổng lồ màu vàng lốm đốm rải rác khắp cánh đồng, napan thì tạo nên những vệt đen thui không đều nhau. Bao quanh vùng thung lũng trồng trọt là những dãy đồi trước kia cây cối um tùm chạy dài theo những triền núi xanh mát bây giờ cũng bị bom đạn xé nát.

Hai huyện ở phía Nam sông Trà Khúc - Nghĩa Hành và Tư Nghĩa - thuộc Khu Trách nhiệm Chiến thuật của quân đội Sài Gòn là những nơi ít bị phá hủy nhất trong số các huyện của tỉnh Quảng Ngãi. Thị xã Quảng Ngãi trở thành trung tâm của một khu biệt lập lớn chưa bị phá hủy, trải dài đến tận bờ biển về phía Đông và ở vài nơi cũng vươn về phía Tây dọc theo bờ Nam sông Trà Khúc đến gần sát các dãy núi. Tuy vậy ở phần nửa phía Nam của huyện Nghĩa Hành, nhiều nhà dân ở gần núi cũng bị phá hủy nặng nề. Ở phía Nam của hai huyện nói trên và ngăn cách bởi dòng sông Vệ nước chảy lững lờ là hai huyện Mộ Đức và Đức Phổ, nằm trong Khu Trách nhiệm Chiến thuật của Lữ đoàn 3 thuộc Sư đoàn 4 của Mỹ. Đây là hai huyện bị hủy diệt nặng nề nhất của tỉnh. Ngoại trừ bốn khu vực nhỏ, còn thì có đến 90-100% nhà cửa ở đây đã bị phá hủy, kể cả những ngôi nhà nằm dọc theo Quốc lộ 1. Các khu vực tương đối ít bị hủy diệt gồm có một khoảnh có đường kính khoảng bốn cây số quanh làng Mộ Đức và một dải đất rộng khoảng bảy cây số dọc phía Tây Quốc lộ 1 trải dài từ thị trấn Đức Phổ lên phía Bắc. Trong khu vực này có một nửa số nhà vẫn còn nguyên. Vùng cực Nam của huyện dài khoảng mười lăm cây số men theo bờ biển cũng có khoảng một nửa số nhà còn tồn tại. Và cuối cùng là một khoảnh dài và rộng khoảng ba, bốn cây số hai bên sông Trà Kau – một con sông nhỏ ở ngay phía Bắc Đức Phổ, gần vùng núi - vẫn có khoảng 60% nhà cửa vẫn còn nguyên.

Khi bay trên bờ biển huyện Mộ Đức, nơi có hơn 90% nhà cửa bị phá hủy, tôi hỏi viên phi công về những người dân từng sống ở vùng này, anh ta trả lời: “Dân vùng này hầu hết là V.C”.

Các làng mạc bị phá hủy theo nhiều cách và trong nhiều tình huống khác nhau, đầu tiên là do Lính thủy đánh bộ Mỹ và sau đó là Lục quân Mỹ. Theo chính sách của Lực lượng thủy bộ 3 được áp dụng riêng trong vùng trách nhiệm của họ thì mỗi khi lực lượng Mỹ hay quân đồng minh bị hỏa lực từ một làng nào đó bắn thì ngay lập tức họ có thể cho ném bom xuống làng đó, không cần phải cảnh báo cho dân chúng biết. Hỏa lực này có thể chỉ là mấy viên đạn bắn tỉa hoặc là một cuộc tấn công mãnh liệt của đối phương. Bất kể mức độ khiêu khích từ làng đó như thế nào, khối lượng hỏa lực đánh trả của Mỹ cũng rất lớn đến nỗi trong hầu hết các trường hợp, các làng này đều bị hủy diệt hoàn toàn. Một làng cũng có thể bị phá hủy nếu tin tình báo cho biết dân làng ủng hộ Việt Cộng bằng cách cung cấp lương thực và nhân lực, nhưng trong trường hợp này thì Cơ quan Chiến tranh Tâm lý của Mỹ sẽ phái một máy bay đến cảnh cáo dân làng bằng cách rải truyền đơn hoặc phát loa từ trên máy bay. Nhưng do không có đủ thời gian để in truyền đơn cho từng trường hợp riêng biệt và do không xác định được thời điểm ném bom, nên nhân viên Chiến tranh Tâm lý phần lớn bỏ cách rải truyền đơn cảnh cáo, mà hầu như chỉ phát loa từ trên máy bay.

Không có quy định chính thức nào về việc khi nào thì binh lính trên mặt đất được phép thiêu rụi một ngôi làng, nhưng nhìn chung cứ mỗi khi bị hỏa lực từ trong làng bắn ra hoặc khi có lệnh đặc biệt của tỉnh trưởng là họ thực hiện ngay việc phá hủy làng. Trong một số trường hợp, quân đội thực hiện một chiến dịch di chuyển quy mô lớn và buộc dân phải rời khỏi làng để họ tiến hành phá hủy ngôi làng một cách triệt để. Vào khoảng đầu tháng Chín đã có hai cuộc hành quân lớn kiểu này của Lục quân Mỹ. Năm nghìn dân ở thung lũng sông Vệ đã bị dồn đi. Tại huyện Bình Sơn, trong một vùng trải dài mười cây số ven biển ở phía Nam, nơi trước đây là làng Tuyết Diêm, 5.000 dân đã bị bốc đi khỏi làng. Nhưng phần lớn việc phá hủy xảy ra bất thường và từng khoảnh một, không theo một kế hoạch nào. Nhìn chung, phần lớn làng mạc trong tỉnh đã bị phá hủy, nhưng việc phá hủy làng mạc trong diện rộng này thông thường không phải là mục tiêu của các cuộc hành quân, mà được xem như là - theo từ ngữ của một viên chức - “tác động phụ” của việc truy đuổi kẻ địch.

Tôi đã cố tìm để có một bản thống kê về những việc Lính thủy đánh bộ đã làm ở Quảng Ngãi trong hai năm hành quân trước khi Lực lượng Đặc nhiệm Oregon đến, nhưng đạt rất ít kết quả. Các sĩ quan thông tin của Lực lượng Đặc nhiệm Oregon không thể nêu ra tên của bất kỳ một cuộc hành quân nào do Lính thủy đánh bộ tiến hành và họ không có trong tay bản thống kê nào về thương vong của Mỹ hay của đối phương. Trong tháng Tám, đã nhiều lần tôi bay trên những khu vực vẫn còn dấu vết của những cánh đồng, rừng cây và làng mạc lỗ chỗ những miệng hố bom đạn từ những ngày hành quân của Lính thủy đánh bộ. Tôi hỏi các phi công về các cuộc hành quân đã được tiến hành trong khu vực này nhưng họ không thể trả lời tôi về thời gian và lý do ném bom.

Tôi gặp một người từng là sĩ quan Chiến tranh Tâm lý đi theo Lính thủy đánh bộ khi lực lượng này mới đến Đức Phổ. Anh ta nói trong tháng đầu tiên quân Mỹ không thể ra ngoài doanh trại quá năm trăm mét mà không vấp phải hỏa lực dày đặc của đối phương. Sau khi được tăng cường lực lượng, họ đi ra được xa hơn nhưng vẫn còn nhiều khu vực không thể xâm nhập được.

Khi Lính thủy đánh bộ có chủ trương sẵn sàng trả đũa bằng cách ném bom các làng mạc nếu nông dân bị nghi là hỗ trợ cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng, tờ truyền đơn mang số 244-286-67 đã được phát cho dân làng để công bố về cách hành động đó. Tờ truyền đơn này nằm trong danh mục các truyền đơn của Cơ quan Chiến tranh Tâm lý được Lính thủy đánh bộ cũng như Lực lượng Đặc nhiệm Oregon tại Quảng Ngãi sử dụng. Truyền đơn này có tựa đề là “Tối hậu thư của Lính thủy đánh bộ gửi dân chúng Việt Nam”, và mục tiêu của truyền đơn được ghi là “Thường dân”. Nội dung của truyền đơn này cũng như các truyền đơn loại đó, cố nhiên được in bằng tiếng Việt. Trên một mặt của truyền đơn có hai hình vẽ. Bức thứ nhất vẽ mấy người lính Việt Cộng đang bố trí một ụ súng cối gần một ngôi nhà tranh trong khi một số người khác nhoài người ra ngoài cửa sổ lia súng máy. Một phụ nữ bế con đứng cạnh ngôi nhà, dưới bức tranh có một dòng chữ “Nếu Việt Cộng làm điều này...”. Bức thứ hai vẽ một máy bay phản lực của không quân Mỹ đang bay vọt lên phía trên ngôi nhà. Bom nổ trước ngôi nhà hất tung mấy người lính, người đàn bà và đứa con xuống đất, ngôi nhà bốc cháy. Ở cận cảnh là một người đàn ông nằm trên mặt đất, tay ôm ngực. Suối máu trào ra từ mắt, mũi, miệng và tai anh ta. Bức tranh có màu đen, trắng, máu thì màu đỏ. Dòng chữ dưới bức tranh này tiếp nối câu ở bức tranh thứ nhất “... ngôi làng của các người sẽ giống như thế”. Mặt sau tờ truyền đơn có nội dung:

Hỡi các công dân Việt Nam,

Lính thủy đánh bộ Mỹ đang chiến đấu bên cạnh lực lượng của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở Đức Phổ nhằm mục đích mang lại cho nhân dân Việt Nam cơ hội có một cuộc sống hạnh phúc, tự do, không phải lo đói khổ. Nhưng nhiều người Việt đã phải trả giá bằng mạng sống và nhà tan cửa nát vì họ hỗ trợ Việt Cộng trong mục tiêu nô dịch nhân dân Việt Nam. Nhiều xóm làng đã bị phá hủy vì họ chứa chấp Việt Cộng.

Các xóm Hải Môn, Hải Tân, Sa Bình, Tân Bình và nhiều xóm khác nữa đã bị phá hủy vì lý do đó. Chúng tôi sẽ không ngần ngại hủy diệt mọi xóm làng trợ giúp Việt Cộng, những kẻ không đủ sức ngăn chặn sức mạnh phối hợp giữa Việt Nam Cộng hòa và đồng minh.

Lính thủy đánh bộ Mỹ phát lời cảnh cáo này: Lính thủy đánh bộ Mỹ sẽ không ngần ngại hủy diệt ngay lập tức bất cứ xóm làng nào chứa chấp Việt Cộng. Chúng tôi sẽ không ngần ngại phá hủy ngay lập tức xóm làng nào được Việt Cộng sử dụng làm cứ điểm để từ đó nã súng vào binh sĩ hoặc máy bay chúng tôi(*).

Tùy các bạn lựa chọn. Nếu các bạn không cho Việt Cộng sử dụng làng của các bạn để làm công sự chiến đấu thì nhà cửa và tính mạng của các bạn sẽ được bảo đảm.

Hỡi các công dân muốn sống yên bình, hãy ở lại trong nhà, hãy từ bỏ việc ủng hộ Việt Cộng.

Sau một cuộc ném bóm trả đũa một ngôi làng nào đó, đôi khi Lính thủy đánh bộ rải loại truyền đơn mang số 244-068-68, với tựa đề được ghi trong danh mục là “Làng của các người đã bị ném bom”, và mục tiêu của truyền đơn cũng vẫn là “Thường dân”. Bức tranh thứ hai trên tờ truyền đơn có nhan đề “Tối hậu thư của Lính thủy đánh bộ gửi dân chúng Việt Nam” có hình vẽ một ngôi nhà đang bốc cháy và nhiều người chết chiếm toàn bộ một mặt của truyền đơn này. Nó được chú thích: “Việt Cộng là nguyên nhân gây ra cảnh này”. Mặt bên kia có nội dung sau:

Dân làng chú ý:

1. Làng của các bạn bị ném bom vì các bạn chứa Việt Cộng.

2. Làng của các bạn bị ném bom vì các bạn trợ giúp cho Việt Cộng hoạt động trong khu vực của các bạn.

3. Làng của các bạn bị ném bom vì các bạn tiếp tế lương thực cho Việt Cộng.

4. Chúng tôi cảnh báo cho các bạn về cuộc ném bom vì chúng tôi không muốn làm hại những dân làng vô tội.

5. Nhà cửa của các bạn bị hư hỏng hoặc phá hủy là vì Việt Cộng.

6. Làng mạc của các bạn sẽ bị ném bom nếu như các bạn chứa chấp Việt Cộng bằng bất kỳ cách nào.

7. Các bạn có thể bảo vệ nhà cửa các bạn bằng cách hợp tác với Chính phủ Việt Nam Cộng hòa và Lực lượng Đồng minh.

8. Hãy báo cho Chính phủ và Lực lượng Đồng minh biết Việt Cộng đang ở đâu để họ bảo vệ các bạn.

9. Chính phủ và Lực lượng Đồng minh sẽ đẩy Việt Cộng ra khỏi làng mạc của các bạn.

10. Chính phủ và Lực lượng Đồng minh sẽ giúp các bạn sống trong hòa bình và có một cuộc sống hạnh phúc, phồn vinh.

Lính thủy đánh bộ, cũng như sau đó là Lực lượng Đặc nhiệm Oregon, lúc đầu đã dự định sẽ thực hiện chế độ cảnh báo dân làng trước khi ném bom. Phần lớn các sĩ quan nói với tôi rằng họ thường phát đi những lời cảnh báo như thế bất cứ khi nào có thể. Điểm 4 trong truyền đơn nói trên và những lời tương tự trong nhiều loại truyền đơn khác liên quan đến ném bom đều đề cập đến những lời cảnh báo giúp cho “những dân làng vô tội” chạy trốn khỏi ngôi làng của mình. Nhưng cố nhiên trong thực tế, khi những cảnh báo đó được phát đi thì kẻ địch nếu có ở trong làng cũng nhân đó mà dời đi hoặc xuống ẩn náu dưới lòng đất. Và nếu như kẻ địch đã rời khỏi làng, thì việc ném bom thành ra lại nhằm vào các nhà dân chứ không nhằm mục tiêu quân sự nào cả. Vì vậy thay vì ném bom theo kiểu cảnh báo hầu như không mang lại cơ hội tiêu diệt kẻ địch, các lực lượng Mỹ thường hành động theo cách đã nêu ra trong “Tối hậu thư của Lính thủy đánh bộ gửi dân chúng Việt Nam”, là ném bom “ngay lập tức”, nhằm tăng khả năng tiêu diệt địch – dù cho cách này sẽ làm tăng khả năng giết chết dân thường.

Một truyền đơn khác có số 244-055-68 vốn do Trung đoàn Lính thủy đánh bộ 1 yêu cầu in, và cũng giống như những truyền đơn khác, có mục tiêu là “thường dân”, cho thấy tấm ảnh một vườn cao su với mấy cây cột cháy đen xiêu vẹo nhô lên khỏi mặt đất ở cận cảnh. Nó được chú thích “Nếu như các người ủng hộ Việt Cộng, làng mạc của các người sẽ giống như thế này”. Mặt sau có nội dung như sau:

“Lực lượng Mỹ hợp tác với lực lượng Nam Việt Nam để truy quét Việt Cộng ra khỏi làng mạc của các bạn và bảo vệ mạng sống của các bạn. Việt Cộng ẩn nấp giữa những phụ nữ và trẻ em vô tội trong làng xóm các bạn để bắn vào quân đội và máy bay. Nếu Việt Cộng trong khu vực này sử dụng các bạn hoặc làng xóm các bạn nhằm mục đích này thì các bạn có thể chờ đợi cái chết đến từ trên trời. Đừng để cho mạng sống và nhà cửa các bạn bị hủy hoại. Đừng để Việt Cộng là nguyên do gây ra cái chết cho thân quyến các bạn.

Hãy cấp báo vị trí của Việt Cộng. Một khi Việt Cộng bị loại trừ thì hòa bình sẽ được lập lại ở Nam Việt Nam. Giúp Chính phủ Việt Nam Cộng hòa là tự giúp mình.”

Khi chuẩn bị cho một số cuộc hành quân trên mặt đất, Lính thủy đánh bộ thả truyền đơn số 44-65, có tiêu đề là “Lính thủy đánh bộ Mỹ là bạn của thường dân”, nội dung như sau:

“Lính thủy đánh bộ đến đây để giúp các bạn, đừng bỏ chạy khi thấy họ. Nếu các bạn bỏ chạy, họ có thể lầm tưởng các bạn là Việt Cộng và nhằm bắn. Cứ đứng yên và Lính thủy đánh bộ sẽ không làm hại các bạn, hãy nói điều đó cho bạn bè các bạn biết.”

Ít nhất có một lần, Lính thủy đánh bộ tuyên bố với báo chí về việc chẳng may ném bom nhầm cái mà họ gọi là một làng “bạn”, nhưng họ không nói đến việc cố tình ném bom bất kỳ một làng “địch” nào. Tờ The New York Times đăng bản tin sau đây trong số ra ngày 28 tháng 9 năm 1966:

“Hai máy bay của Quân đoàn Lính thủy đánh bộ Mỹ hôm qua đã không may dội bom nhầm vào một làng bạn ở Nam Việt Nam, làm chết 28 và bị thương 17 người dân thiểu số ở miền núi - một người phát ngôn của Lính thủy đánh bộ cho biết.

Cuộc ném bom cũng phá hủy khoảng 100 ngôi nhà trong làng, thuộc tỉnh Quảng Ngãi, cách Sài Gòn khoảng 350 dặm về phía Bắc.

Làng này nằm dưới quyền kiểm soát của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa và nằm ngoài khu vực mục tiêu được quy định cho phi vụ tấn công do hai máy bay Lính thủy đánh bộ đảm trách - người phát ngôn nói.

Trực thăng tải thương của Lính thủy đánh bộ đã bay đến làng để chở người bị thương đến một bệnh viện của chính phủ ở gần thị xã Quảng Ngãi.

Nạn nhân là người Thượng – là những người dân du canh du cư trên vùng núi vốn cung cấp nhiều chiến binh phục vụ cho sự nghiệp của Đồng minh.

Người phát ngôn nói làng này cũng là nơi cư ngụ của một số binh lính của Chính phủ và gia quyến họ.”

Thông thường, thực hiện một cuộc không kích không phải chỉ là rải một loạt bom trùm lên toàn bộ mục tiêu là xong, mà thường có đến tám, chín cuộc bổ nhào của máy bay tiêm kích oanh tạc và thường phải mất mười, mười lăm phút mới hoàn thành. Phi công của loại máy bay cánh quạt làm nhiệm vụ quan sát mỗi cuộc bổ nhào và giúp cho phi công tiêm kích điều chỉnh mọi sai sót, cho nên rõ ràng là bom đạn của một cuộc không kích không thể dội toàn bộ lên một ngôi làng chỉ vì ngắm nhầm. Vì vậy có thể khẳng định cuộc ném bom ấy vốn được hoạch định cho một làng “địch” nhưng lại được thực hiện nhầm vào một làng “bạn”, hoặc là vì bộ binh Mỹ đã đánh giá sai “sự thiện chí” của ngôi làng bị ném bom.

Lực lượng Đặc nhiệm Oregon tiếp tục cách rải truyền đơn của Lính thủy đánh bộ đe dọa phá hủy một ngôi làng hỗ trợ Việt Cộng. Truyền đơn số 244-279-67 cũng in cả hai mặt, một mặt in bức tranh vẽ một ngôi nhà bị ném bom, với dòng chú thích “Nếu Việt Cộng làm điều này... thì làng của các bạn sẽ giống như thế này” như đã xuất hiện trên “Tối hậu thư của Lính thủy đánh bộ gửi dân chúng Việt Nam”. Còn nội dung ở mặt sau thì viết:

“Lực lượng quân sự Việt Nam Cộng hòa và thế giới tự do không muốn làm hại người dân Việt Nam vô tội muốn sống trong hòa bình. Tuy nhiên nếu như những Việt Cộng phạm pháp được phép ẩu náu trong nhà của các bạn, thì cả Việt Cộng và nhà của các bạn sẽ bị hủy diệt.”

Một truyền đơn khác ở cận cảnh vẽ một binh lính Việt Cộng ở tư thế quỳ, đang bị sáu máy bay phản lực, hai trực thăng, hai khẩu pháo, một xe tăng và bốn lính bộ binh đồng thời xả súng bắn. Dưới có chú thích “Chúng ta phải hủy diệt Việt Cộng để có hòa bình”, còn phía sau viết:

“Lực lượng Mỹ đến để trợ giúp Chính phủ Việt Nam Cộng hòa truy quét Việt Cộng đang nô dịch các bạn, đuổi chúng ra khỏi làng xóm các bạn. Nếu các bạn cho phép Việt Cộng ẩn náu trong làng xóm các bạn, các bạn có thể chờ đón sự hủy diệt đến từ trên không, từ súng cối và pháo binh. Đừng để làng xóm các bạn bị hủy diệt, hãy chỉ cho chúng tôi những Việt Cộng đang đem chết chóc và hủy diệt đến cho các bạn và nhà cửa các bạn.”

Các truyền đơn khác mà Lực lượng Đặc nhiệm Oregon được cung cấp để rồi sửa cho phù hợp với khu vực của mình, nhằm lên án và loan truyền thiệt hại do Việt Cộng gây ra. Truyền đơn số 244-492-67 có tiêu đề “Thông điệp của công dân huyện Phong Điền gửi Việt Cộng” in ảnh một ngôi nhà bị tốc đi nửa mái, dưới có dòng chữ “Ngôi trường Phật giáo tại trung tâm tị nạn Phong Điền bị sụp đổ do bị Việt Cộng điên rồ tấn công vào ngày 15 tháng 5 năm 1967”. Nội dung ở mặt sau là:

Một thông điệp gửi Việt Cộng:

Chúng tôi là những công dân của huyện Phong Điền sẽ không bao giờ bị lôi kéo theo sự nghiệp của các ông. Cái sự nghiệp chủ trương gây chết chóc cho người của chúng tôi và người của các ông. Chúng tôi, những người dân Phong Điền van xin các ông, những người đang bị Việt Cộng tuyên truyền lừa bịp, hãy suy nghĩ về nỗi khổ mà các ông đã gây ra và hãy từ bỏ cái sự nghiệp xa lạ đó. Các ông hãy cùng chúng tôi xây dựng tổ quốc thân yêu của chúng ta dưới ngọn cờ hòa bình của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, như vậy có phải tốt hơn không?

JONATHAN SCHELL
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên