![]() |
Minh họa: Duy Nguyên |
Bà ở trong căn nhà năm gian đã cũ. Thỉnh thoảng một cơn gió trái mùa cũng đủ hất tung vài mảng ngói trên nóc nhà bà xuống đất.
Mùa hè cũng như mùa đông, bà luôn tay đan len. Bà hay dỡ những chiếc áo len cũ từ thời bao cấp ra đan, chắp nối những sợi len đứt lại, bởi thế những chiếc khăn, chiếc mũ, chiếc áo bà đan có vẻ xù xì ngồ ngộ. Bà mang sang mấy nhà hàng xóm cho bọn trẻ, có nhà nể cầm lấy, có nhà không. Bà mang về xếp xó một thời gian rồi lại tháo ra đan. Tôi gắt gỏng, bà mắng tôi, cười móm mém: “Tổ cha đứa nào sinh ra đứa bất hiếu như mày!”.
Bà ăn một mình, nấu một bữa ăn hai. Tôi về chẳng ăn bữa nào với bà. Bà nấu cơm khi thì sống, khi thì khê, cơm mang lên lúc nào tro than cũng đầy quanh miệng nồi. Bà ăn ngon lành. Tôi định bê đi đổ bà mắng sa sả: “Của ngọc thực mày mà đổ là có tội với giời đấy!”. Món rau bà nấu cũng lạ. Bà hái tất cả các loại cây cỏ ăn được trong vườn nấu thành bát canh tập tàng cứ xì xụp húp khen ngon. Tôi nếm thử phải chạy vội ra sân nhè. Bà làm món đậu mới không giống ai, bà xay nhỏ đậu và băm thịt mỡ ra đun lẫn với nhau cho tới khi sền sệt thì mang ra ăn. Thú thực, khi nhìn bà ăn tôi thấy sợ.
Ký ức của tôi về bà khi nhỏ, bà là một con cóc khù khoằm xấu xí. Lớn dần thì ký ức ấy cũng mờ dần, nhưng tôi vẫn không bao giờ gần gũi được bà.
Gần tết, bố mẹ tôi nhét quần áo vào balô tống cổ bắt tôi về quê vì sợ đứa con của bố mẹ sắp thành người mất gốc. Tôi về quê mà lòng bời bời những tiếc nuối thị thành sôi động.
Ở được với bà ba ngày, tôi chán.
Bà cứ ra ra vào vào, không đan thì quét, không quét nhà thì quét sân quét ngõ. Bà luôn lặp lại những công việc buồn tẻ ấy hằng ngày.
Thỉnh thoảng bà ra bãi bồi ngoài đê cắt những bó hoa cải vàng ươm mang về phơi đầy sân. Khi các cuống hoa héo queo lại, bà chít thành từng đon nhỏ treo lên giành bếp. Tôi cũng chẳng buồn thắc mắc.
Bà hay lấy cây mùi về đun nước bắt tôi tắm cho thơm. Bà bảo: “Đàn bà con gái hơn nhau ở cái hương, mày cứ trát mấy cái thứ xà phòng ấy hắc hắc là, như thế thì bao giờ mới lấy được chồng”. Tôi lẩm bẩm trong bụng “Đúng là nhà quê”. Bà vào nhà, tôi đổ nghiến cái chậu nước mùi đi rồi lại lôi sữa tắm ra tắm.
Bà tắm mới khôi hài, bà cởi trần trùng trục đứng ở giếng, bì bọp múc nước pha ít nước nóng vào rồi đổ ùm ùm lên người. Cái tí của bà dài thườn thượt như quả mướp. Tôi lấy cán gáo dừa hẩy hẩy tí của bà lên: “Cái tí của bà có khi vắt được qua vai ấy nhỉ”. Bà hẩy hẩy cái gậy ra bỏm bẻm: “Thằng bố mày, rồi các cô mày đánh đu lấy nhai như chão rách, đến mày còn quạc mồm ra bú thì nó chẳng chảy ra”. Tôi nhăn mặt xua tay phản đối: “Ai thèm bú cái xơ mướp này”. Bà đập giúi vào đầu tôi: “Xéo!”.
Bà ốm vào ngày giáp tết, bố mẹ bận đi biếu sếp lớn sếp bé nên dặn tôi phải về chăm bà cẩn thận. Bà nằm viện, sáng sớm tôi mua hai cặp lồng cháo mang vào để bà ăn cả ngày rồi ra thị trấn chơi.
Gần một tuần nằm viện bà nằng nặc đòi về. Nhìn bà sọp người đi cũng thoáng chạnh lòng, nhưng cuối cùng cái bản tính vô tư đã dìm cảm xúc chạnh lòng xuống tận cùng để vô tâm đè lên. Lúc thu dọn đồ cho bà xuất viện, bà mang cặp lồng cháo tôi vừa mua đi phân phát cho mấy người trong phòng rồi nắm tay nắm chân xuýt xoa động viên mọi người mau khỏi bệnh về nhà ăn tết. Tôi thấy bà lố bịch nên lùi lũi xách đồ ra trước.
Bà về, lại đan đan, quét quét, bà vun đống lá bạch đàn rụng ngoài ngõ thành ụ đốt. Bà ngồi ở gốc cây hát mấy câu ca trù bần bật. Bà gọi tôi ra bảo: “Mày ngửi thấy mùi ông mày chưa?”. Tôi lẩm bẩm: “Bà già lẩm cẩm”. Bà bắt tôi ngồi nhổ tóc bạc cho bà, tôi bới qua quýt lật mớ tóc bạc lấm tấm đen ra, một vết sẹo to tướng giữa đỉnh đầu: “Bà máu đời gớm nhỉ? Đánh ghen với bà hai à?”. Bà hẩy hẩy đống lá lên cho cháy hết: “Ngày xưa còn bé bà cũng hư như mày bây giờ, cụ ngoại giận quá…”. Bà im lặng. Đôi mắt bà đục ngầu. Tôi cười há há: “Tưởng bà phải khóc ân hận lắm chứ?”. Bà ngồi bất động. Tôi không cười được nữa.
Ngày 30 tôi về lại thành phố. Bà giúi vào tay tôi một xếp tiền được để phẳng phiu: “Tiền bố mẹ mày đưa, tiền bán giống cải, bà chả biết tiêu gì, mày mang về mà may quần áo mới”.
Tôi cầm xấp tiền cho tọt vào túi, định quay đi thấy bà đứng tần ngần, tôi xấu hổ cúi gằm mặt xuống nhìn thấy đôi dép nhựa của bà hàn chằng hàn đụp. Tôi vớt vát: “Lần sau về cháu mua bà đôi dép“. Bà gật đầu cười rồi đưa tôi ra tận bến xe huyện. Tôi dặn bà đứng im ở đó trông đống hành lý cho tôi đi vệ sinh. Gặp người bạn trên thành phố họ muốn về cùng tôi.
Nghĩ đến người bà nhếch nhác của mình, tôi thấy xấu hổ nên tìm cách biện lý do nhưng họ một mực muốn về cùng tôi, tôi đành phải giả vờ nhảy lên một chuyến xe khác đi một đoạn rồi bắt xe ngược lại. Khi trở lại bến, trời nắng chang chang, bà vẫn đứng giữa sân bến, mặt mũi đỏ lựng ôm lấy đống hành lý mắt nhớn nhác nhìn ngó xung quanh.
Tôi cáu giận: “Bà bằng này tuổi rồi mà không biết tìm chỗ râm mà đứng à?”. Bà nhăn nhó tội nghiệp: “Sợ cháu tìm không thấy!”. Tôi vùng vằng đuổi bà về, bà khòm khòm người cố đuổi theo sau xe mấp máy điều gì đó.
Từ đó, thỉnh thoảng bố mẹ về thăm bà, bắt tôi về cùng nhưng tôi toàn viện cớ có việc bận để không về quê. Lần nào về bố mẹ cũng mang lên cho tôi bọc quà, khi thì túi kẹo lạc, khi thì gói bỏng ngô, khi thì mấy quả chuối, có khi cả mấy củ khoai ngứa luộc. Bố mẹ bảo bà hay nhắc việc tôi đưa đôi dép nào đó cho bà. Tôi tảng lờ như không. Lần cuối cùng tôi nhận được quà của bà là một ít tiền, một đôi dép nhựa màu nâu và một túi nhót. Bố tôi bảo bà mua dép cho cả hai bà cháu, bà dặn tôi không phải mua nữa.
Gần tháng sau, sáng sớm thấy bố mẹ cuống cuồng gọi tôi dậy mau chóng về quê vì bà mất. Bà bị viên ngói rơi trúng đầu. Tôi nghe mọi người kể khi hấp hối bà chỉ gọi tên tôi rồi nhắc tới cái hộp gỗ nhỏ.
Sau đám tang của bà, tôi được bố mẹ đưa cho cái hộp gỗ. Tôi mở ra, bên trong là một xấp tiền, một đôi hoa tai và một túi kẹo lạc. Nước mắt tôi trào ra.
Bà mất, đôi lần bố mẹ tôi định bán căn nhà cũ ấy đi vì nó bỏ hoang, nhưng tôi một mực muốn giữ lại. Bố mẹ tôi đành sửa sang lại ngôi nhà cũ vì tôi nói để lại thì tôi mới còn có cái gọi là quê mà về mỗi khi gặp chuyện không vui, để rì rầm với bà những khoảnh khắc bất ổn và bình yên.
Cũng từ ấy tôi thích món canh tập tàng, thích ăn cơm nấu bằng rạ, thích cả kẹo lạc và thích tắm nước lá mùi đun lẫn với thân cải khô.
Hằng năm, cứ đến giỗ bà, tôi lại mua một đôi dép để đốt. Tàn than bay vèo vèo lên trời và cuốn đi.
Áo Trắngsố 37(số 92 bộ mới) ra ngày 15/04/2011hiện đã có mặt tại các sạp báo. Mời bạn đọc đón mua để thưởng thức được toàn bộ nội dung của ấn phẩm này. |
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận